Đề khảo sát chất lượng học kì 1 Ngữ văn Lớp 9 Sách Kết nối tri thức - Năm học 2023-2024 - Trường THCS Trung Thành (Có ma trận và đáp án)
Bạn đang xem tài liệu "Đề khảo sát chất lượng học kì 1 Ngữ văn Lớp 9 Sách Kết nối tri thức - Năm học 2023-2024 - Trường THCS Trung Thành (Có ma trận và đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
de_khao_sat_chat_luong_hoc_ki_1_ngu_van_lop_9_sach_ket_noi_t.docx
Nội dung tài liệu: Đề khảo sát chất lượng học kì 1 Ngữ văn Lớp 9 Sách Kết nối tri thức - Năm học 2023-2024 - Trường THCS Trung Thành (Có ma trận và đáp án)
- PHÒNG GD&ĐT HUYỆN VỤ BẢN ĐỀ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG HỌC KÌ I TRƯỜNG THCS TRUNG THÀNH NĂM HỌC 2023 - 2024 Giáo viên: Lê Thị Xuân Quế Môn Ngữ văn - Lớp 9 (Thời gian làm bài: 120 phút) I. MA TRẬN ĐỀ Cấp độ tư duy Nội Vận dụng Cộng Chủ đề Nhận biết Thông hiểu Vận dụng dung cao TN TL TN TL TN TL TN TL Các phương 1 1 châm hội thoại Sự phát triển của 1 từ vựng Thuật 1 ngữ Biện pháp tu 1 I. Tiếng từ Việt Thành 1 ngữ Lời dẫn trực tiếp, 1 lời dẫn gián tiếp Từ Hán 1 Việt 8 câu 6 câu 2 câu 2,0 Tổng (1,5 0 (0,5 0 0 0 0 điểm điểm) điểm) (20%) hình thức 1 Phần II. văn bản Đọc - hiểu Nội dung 1 1 - Ngữ liệu: văn bản Văn bản 1 câu 0 1 câu 0 1 câu 0 0 3 0 văn học 0,5 đ 0,75 0,75đ câu hoặc văn 5% đ 7,5% 2,0 đ
- bản nghị 7,5% 20 luận. % - Tiêu chí lựa chọn ngữ liệu: 01 đoạn trích/văn bản hoàn chỉnh. Độ dài khoảng 150 – 300 chữ Câu 1. 1* 1* Viết đoạn 1* 1* nghị luận (12-15 câu hoặc 20 dòng) về khía cạnh vấn đề từ VBĐH Phần III. Câu 2: 1* 1* Tập làm Tạo lập 1* 1* văn văn bản /nghị luận - Cảm nhận đoạn thơ HĐ kì 1 0 0 0 2* 0 2* 2 câu Tổng 2* 2* 6,0 đ 60% 6 câu 3* 2 câu 3* 0 3* 0 2* 10,0 đ 1,5 đ 1,5 0,5 đ 2,5 đ 3,0 đ 1,0 đ Cộng đ 30% 30% 30% 10% 100%
- ĐỀ BÀI PHẦN I: TIẾNG VIỆT (2,0 điểm) Hãy chọn phương án đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào bài làm. Câu 1: Câu thành ngữ “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” liên quan đến phương châm hội thoại nào? A. Phương châm về chất. B. Phương châm quan hệ. C. Phương châm về lượng. D. Phương châm cách thức. Câu 2: Người nói dùng những cách diễn đạt như: như tôi đã biết, nếu tôi không lầm thì, tôi nghe nói, theo tôi nghĩ nhằm tuân thủ phương châm hội thoại nào? A. Phương châm về lượng B. Phương châm về chất C. Phương châm quan hệ D. Phương châm cách thức Câu 3: Câu văn: “Chắc có, các anh ấy có những cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt.” (Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê) sử dụng biện pháp tu từ nào? A. Nói quá B. Hoán dụ . C. Ẩn dụ D.Chơi chữ . Câu 4: Trong những tổ hợp từ sau, tổ hợp từ nào là thành ngữ? A. Tấc đất, tấc vàng B. Uống nước nhớ nguồn C. Đánh trống bỏ dùi D. Lá lành đùm lá rách Câu 5: Trong các ví dụ sau, ở ví dụ nào từ "đầu" được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức hoán dụ? A. Con trâu là đầu cơ nghiệp. B. Nam luôn dẫn đầu trong các kì thi. C. Bạn ấy luôn đứng đầu hàng. D. Đóng thuế theo đầu người. Câu 6: Từ được gạch chân trong câu: “ Thỏ là động vật hằng nhiệt, ăn cỏ, lá bằng cách gặm nhấm, hoạt động về ban đêm. ” là thuật ngữ của ngành nào dưới đây? A. Địa lý B. Sinh học C. Lịch sử D. Văn học Câu 7: Phần in đậm trong câu sau là: Họa sĩ nghĩ thầm: "Khách đến bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn." A. Lời dẫn trực tiếp B. Lời dẫn gián tiếp C. Thành phần trạng ngữ D. Thành phần vị ngữ Câu 8: Từ nào sau đây không phải là từ Hán Việt A. Gia đình B. Xã hội C. Bạn bè D. Học sinh PHẦN II: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (2,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 3: Trong dòng đời vội vã có nhiều người dường như đã quên đi tình nghĩa giữa người với người. Nhưng đã là cuộc đời thì đâu phải chỉ trải đầy hoa hồng, đâu phải ai sinh ra cũng có được cuộc sống giàu sang, có được gia đình hạnh phúc
- toàn diện mà còn đó nhiều mảnh đời đau thương, bất hạnh cần chúng ta sẻ chia, giúp đỡ. Chúng ta đâu chỉ sống riêng cho mình, mà còn phải biết quan tâm tới những người khác. (Đó chính là sự “cho” và “nhận” trong cuộc đời này). “Cho” và “nhận” là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người có thể cân bằng được nó lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng có thể nói “Những ai biết yêu thương sẽ sống tốt đẹp hơn” hay “Đúng thế, cho đi là hạnh phúc hơn nhận về”. Nhưng tự bản thân mình, ta đã làm được những gì ngoài lời nói? Cho nên, giữa nói và làm lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình. Đâu phải ai cũng quên mình vì người khác. Nhưng xin đừng quá chú trọng đến cái tôi của chính bản thân mình. Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống không đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương. Cuộc sống này có quá nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là tình yêu thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất. (Trích “Lời khuyên cuộc sống”, nguồn Internet) Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn bản ? (0,5 điểm) Câu 2. Theo em, vì sao tác giả cho rằng: “Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất.”? (0,75 điểm) Câu 3. Em hãy nêu thông điệp rút ra từ đoạn trích? (0,75 điểm) Phần III: Tập làm văn (6.0 điểm) Câu 1. (1,5 điểm) Từ nội dung của đoạn đọc hiểu, em hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 20 dòng) trình bày suy nghĩ về vai trò của tình yêu thương trong cuộc sống. Câu 2: (4,5 điểm) Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng. Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận) HẾT
- HƯỚNG DẪN CHẤM PHẦN I: TIẾNG VIỆT (2,0 điểm) - Đáp án: Câu 1 2 3 4 5 6 7 8 Đáp án B A A C D B A C - Yêu cầu: Mỗi câu đúng được 0,25 điểm, trả lời sai hoặc thừa thì không cho điểm. PHẦN II: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (2,0 điểm) Câu Yêu cầu về nội dung Điểm * Học sinh trả lời được: 1 Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận 0,5 đ * Học sinh trả lời được: 2 Tác giả cho rằng: “Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là 0,75 đ lúc ta được nhận lại nhiều nhất.”? Vì: - Nếu như ta đem một niềm vui đến cho người khác có nghĩa là đã tạo được cho mình một niềm hạnh phúc. - Nếu như ta đem nhiều niềm vui đến cho nhiều người, có nghĩa là ta đã đón nhận rất nhiều niềm vui hạnh phúc. * HS trả lời được 1 ý cho 0,5đ. Đủ 2 ý cho 0,75đ 3 - Phải biết sống vì mọi người. 0,75 - Cần biết yêu thương, chia sẻ với những người xung quanh. * HS trả lời được 1 ý cho 0,5đ. Đủ 2 ý cho 0,75đ PHẦN III: TẬP LÀM VĂN (6,0 điểm) Câu Yêu cầu về nội dung Điểm *Yêu cầu chung: HS biết cách viết một đoạn văn NLXH (khoảng 20 dòng) rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. * Yêu cầu cụ thể: a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận với dung lượng khoảng 20 dòng. 0,25 đ - Mức 0.25 điểm: Đúng cấu trúc, đúng dung lượng Câu 1 - Mức 0 điểm: Không đúng cấu trúc, hoặc dung lượng (1,5 đ) dưới 17 dòng hoặc vượt trên 22 dòng. b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: vai trò của tình yêu 0,25 đ thương trong cuộc sống. - Mức 0.25 điểm: Xác định chính xác - Mức 0 điểm: Xác định sai hoặc không xác định
- c. Triển khai vấn đề nghị luận 1,0đ Đây là một gợi ý: - Sống biết yêu thương không có nghĩa là ta sẽ mất đi mà là ta đang nhận lại nhiều điều tốt đẹp hơn: nhận lại yêu thương, nhận lại niềm vui, nhận lại sự thanh thản và hạnh phúc - Những người sống biết yêu thương thường được mọi người yêu mến và ngưỡng mộ. - - Đem đến niềm vui và hạnh phúc, giảm bớt sự khốn khó, bất hạnh cho người khác, đồng thời đem đến sự thanh thản, hạnh phúc cho chính mình. - Là thước đo nhân cách của con người trong xã hội, khiến xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. - Dẫn chứng: - Bài học nhận thức, hành động: Để cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn mỗi người cần biết yêu thương và sẻ chia, phải biết cho đi. “Cho” mà vô tư, không mong được “nhận” lại, không mong được trả ơn nghĩa là ta đã thực sự đem niềm vui đến cho người khác, cũng chính là đem lại cho mình một niềm hạnh phúc. Có thể vận dụng biểu điểm sau: - Mức 1.0 điểm: Nêu ra được từ 3 ý trở lên về mối quan hệ giữa cho và nhận trong cuộc sống; có rút ra bài học; chặt chẽ, thuyết phục - Mức 0.75 điểm: Nêu được 2 ý về mối quan hệ giữa cho và nhận trong cuộc sống; có rút ra bài học; khá chặt chẽ, thuyết phục - Mức 0.5 điểm: Nêu được 1 ý về mối quan hệ giữa cho và nhận trong cuộc sống; có rút ra bài học nhưng còn sơ sài; chưa chặt chẽ - Mức 0.0 – 0.25 điểm: Không làm, hoặc hoặc viết quá sơ sài, chung chung * Yêu cầu chung:
- + Học sinh biết vận dụng kết hợp các thao tác lập luận và kỹ năng làm bài nghị luận văn học. Diễn đạt trong sáng, có cảm xúc, đảm bảo liên kết, không mắc lỗi chính tả. * Yêu cầu cụ thể 0.25đ + Bài làm đủ bố cục 3 phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề. 0.25đ + Xác định đúng vấn đề nghị luận: cảnh đoàn thuyền đánh Câu 2 cá ra khơi trong sự hùng vĩ, tráng lệ của buổi hoàng hôn (4,5 đ) trên biển. + Triển khai vấn đề nghị luận: chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục. Sử dụng tốt các thao tác lập luận, biết kết hợp giữa lý lẽ và dẫn chứng. Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý sau: Giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm 0,5 đ - Huy Cận (1919-2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê làng Ân Phú, huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với tập thơ Lửa Thiêng. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng. Năm 1996 ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và Nghệ thuật. - Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”(1958). b. Phân tích 2 khổ thơ: Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. * Cảnh đoàn thuyền ra khơi khi hoàng hôn buông 1.5 đ xuống - Mở đầu bài thơ nhà thơ miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi khi hoàng hôn buông xuống “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then,đêm sập cửa
- Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu. + Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. +Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long ở hướng Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời mọc được thôi. Vậy thì ở đây, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi,giữa biển khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ bãi. Lúc đó, xung quanh con thuyền chỉ là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn cách lặn xuống biển. + Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ đã so sánh “mặt trời” với “hòn lửa”. Phép so sánh gợi ra một khung cảnh rực rỡ, huy hoàng, tráng lệ. Ánh mặt trời lúc cuối chiều đỏ rực phả xuống mặt biển làm hồng rực cả một vùng biển, vùng trời – một cảnh tượng thật kì vĩ. *Liên hệ: Xưa nay, thơ viết về cảnh hoàng hôn thường phảng phất một nỗi buồn như Thôi Hiệu viết trong bài “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” chẳng hạn: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Hay chính Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” trước CM cũng viết “ Lòng quê rờn rợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” + Nhưng ở câu thơ đầu trong bài thơ “ĐTĐC” của Huy Cận, ta lại thấy cảnh hoàng hôn hiện lên rất đẹp. Phải chăng lúc này Huy Cận đang vui, vui vì ông lại tìm được nguồn cảm hứng sáng tác sau 10 năm không thể cầm bút, vui vì ngư dân được làm chủ biển trời nên ông nhìn cảnh mới đẹp như vậy. Có lẽ là thế bởi Nguyễn Du cũng đã từng nói với chúng ta rằng “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh chỉ đẹp khi tâm trạng con người phơi phới niềm vui.
- + Cùng với phép so sánh, HC còn miêu tả thiên nhiên khi chiều xuống bằng một phép nhân hoá cũng đầy sáng tạo: “Sóng đã cửa”. Lời thơ với các động từ mạnh ( sập, cài) đã cho ta hình dung được một cảnh tượng thật rộng lớn và đầy bí ẩn. Biển đêm với những con sóng bạc đầu chạy ngang như những chiếc then cài còn màn đêm là cánh cửa đang đóng sập lại. Chỉ với 7 chữ nhưng câu thơ gợi lên trong ta rất nhiều liên tưởng thú vị. Biển đêm vốn bí ẩn, đáng sợ, thậm chí là cuồng nộ nhưng giờ đây cũng trở nên gần gũi, ấm áp, thân thương. Vũ trụ và thiên nhiên bao la lúc này chẳng khác nào một ngôi nhà rộng lớn. còn những người ngư dân chính là các thành viên của gia đình. Thiên nhiên và con người giờ đây vô cùng gần gũi, gắn bó và hoà hợp. Và khi thiên nhiên đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu làm việc: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. + Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả * Tiếng hát gọi cá vào 1.25 đ Nếu như ở khổ thơ đầu, tác giả miêu tả những người ngư dân thuyển ra khơi luôn mang theo câu hát thì đến khổ thơ thứ 2, nhà thơ nói cụ thể hơn về lời hát của họ. “ Hát rằng cá bạc biển đông lặng Cá thu biển đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” + Từ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê - kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao - "cá bạc", "cá
- thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển cả. + Thêm vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý nghĩa: Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Hai chữ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này lời thơ cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. + Để rồi từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một lời ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi". Lời thơ có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Nhà thơ gọi cá mà như gọi bạn. Giữa con người và thiên nhiên gần như không hề có khoảng cách. Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của họ. * Đánh giá về nghệ thuật và nội dung: Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng 0,75 đ và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao động và niềm hi vọng của người dân chài. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao. * Lưu ý với câu 2 phần III: - Hành văn lưu loát, có kỹ năng nghị luận phân tích tốt, không mắc lỗi diễn đạt mới cho điểm tối đa ở mỗi ý. Cần cân nhắc để đánh giá bài viết của học sinh trong tính tổng thể. - Khuyến khích những bài viết có kiến thức sâu, rộng; phân tích tốt. Những bài viết chung chung hoặc sơ sài, không cho quá một nửa số điểm của bài văn.
- * Lưu ý chung: - Sau khi chấm điểm từng câu giám khảo nên cân nhắc để cho điểm toàn bài một cách hợp lí, đảm bảo đánh giá đúng trình độ của học sinh. - Điểm trừ (áp dụng đối với phần tự luận): sai từ 8 đến 10 lỗi câu, chính tả, dùng từ trừ 0,5 điểm, sai quá 10 lỗi trừ 1,0 điểm. - Điểm của bài thi là điểm của các câu cộng lại, cho điểm lẻ đến 0,25 không làm tròn.