Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9

doc 35 trang Đan Tâm 29/03/2025 660
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_ky_nang_viet.doc

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9

  1. UBND HUYỆN VỤ BẢN TRƯỜNG THCS NGUYỄN PHÚC BÁO CÁO SÁNG KIẾN “ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG C CAO KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH LỚP 9” Lĩnh vực ( mã)/ cấp học: Ngữ văn (01)/ THCS Tác giả: VŨ THỊ THANH HƯƠNG Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm Ngữ văn Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS xã Liên Minh, Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Vụ Bản, ngày 6 tháng 5 năm 2024
  2. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9”. 2. Lĩnh vực ( mã)/ cấp học: Ngữ văn ( 01)/ THCS 3. Thời gian áp dụng sáng kiến : Từ tháng 8 năm 2022 đến tháng 4 năm 2024 4. Tác giả Họ và tên: Vũ Thị Thanh Hương Năm sinh: 29/12/ 1969 Nơi thường trú : Xã Liên Minh - huyện Vụ Bản- tỉnh Nam Định Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm Văn Chức vụ công tác : Giáo viên Nơi làm việc : Trường trung học cơ sở Nguyễn Phúc Địa chỉ liên hệ : Trường trung học cơ sở Nguyễn Phúc – Xã Liên Minh- Huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định Điện thoại : 0838714220 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến Tên đơn vị : Học sinh lớp 9 Trường trung học cơ sở Nguyễn Phúc- Xã Liên Minh - Huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định Địa chỉ liên hệ : Trường trung học cơ sở Nguyễn Phúc – Xã Liên Minh- Huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định Điện thoại : 03503821660
  3. BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: 1. Cơ sở khoa học để tạo ra sáng kiến. Trong chương trình ngữ văn THCS bên cạnh tự sự , miêu tả, biểu cảm, thuyết minh và hành chính công vụ, nghị luận là một trong sáu kiểu bài tập làm văn học sinh được học ở bậc THCS. Đối với các em , đây là kiểu bài tương đối khó vì nó không chỉ đơn thuần đòi hỏi người viết chỉ có kiến thức, óc tưởng tượng , khả năng trình bày các sự việc hay bộc lộ cảm xúc cá nhân mà còn có lí lẽ , dẫn chứng thuyết phục , biết lập luận để trình bày những vấn đề gần gũi trong đời sống con người. Muốn vậy , người viết phải có óc phân tích , đánh giá, khả năng khái quát cao. Việc lập luận trong đoạn văn được đặt ra như một kĩ năng cần phải rèn luyện. Kĩ năng này có thể được luyện ngay trong một câu, một số câu , một đoạn văn hay trong cả một bài văn. Tuy vậy, trong câu do dung lượng không lớn nên việc lập luận đơn giản, thường chưa thể hiện đầy đủ bản chất. Còn trong một đoạn văn, một văn bản hoàn chỉnh, việc lập luận sẽ phong phú đa dạng hơn. Do đó việc hình thành kĩ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh là điều rất quan trọng đặc biệt đối với học sinh lớp 8, làm cơ sở để các em làm tốt dạng văn nghị luận xã hội ngắn ở lớp 9 và THPT. Ở bậc Trung học cơ sở, trong phân môn Tập làm văn, học sinh đã học về đoạn văn và các thể văn nghị luận. Kiến thức về đoạn văn các em được tìm hiểu sơ lược từ lớp 6 (Tiết 20: Lời và đoạn văn tự sự), lớp 7 các em được học chuyên sâu về dạng bài văn nghị luận ở học kỳ II với 3 nội dung lớn - Các vấn đề chung về văn nghị luận: Gồm các bài tìm hiểu chung; đặc điểm của văn bản nghị luận; đề văn nghị luận và cách làm bài văn nghị luận; bố cục và phương pháp luận lập trong văn nghị luận ) - Cách làm bài văn lập luận chứng minh. - Cách làm bài văn lập luận giải thích. Bước sang chương trình lớp 8 các em tiếp tục được thực hành để củng cố và nâng cao kỹ năng viết đoạn văn nghị luận nội dung được giáo viên xây dựng trong kế hoạch giáo dục như sau: -Luyện tập xây dựng trình bày luận điểm ( tiết 111). - Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận.( Tiết 114) - Luyện tập đưa yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận.( Tiết 119) - Tìm hiểu yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận.( Tiết 120) - Luyện tập đưa yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận.( Tiết 122) Trong khung chương trình giáo dục ngữ văn lớp 9 2020-2021 phần viết Bài văn nghị luận xã hội ngắn được giáo viên xây dựng kế hoạch như sau: - Nghị luận về một hiện tượng đời sống ( Tiết 93). - Cách làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống ( Tiết 94, 95).
  4. - Thực hành làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống ( Tiết 96, 97). - Nghị luận về một tư tưởng đạo lý ( tiết 98). - Cách làm bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý ( tiết 99, 100). - Thực hành viết bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý ( tiết 101, 102). Ngoài ra giáo viên còn lồng ghép luyện tập, rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh trong các tiết ôn tập cuối kỳ, luyện đề. Với việc xây dựng khung chương trình ngữ văn và việc xây dựng kế hoạch giáo dục như trên ta thấy ở kiểu bài văn nghị luận các em đã được học từ lớp 7 tiếp tụ được kế thừa và nâng cao ở lớp 8 và lớp 9. Đặc biệt trong chương trình lớp 9 , vấn đề nghị luận gồm 2 mảng là nghị luận về vấn đề xã hội và nghị luận văn học. Có thể nói việc tìm hiểu về đoạn văn, về văn nghị luận có một hệ thống từ thấp đến cao phù hợp với lứa tuổi và cấu trúc của chương trình Ngữ văn THCS. Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn nói chung, môn Ngữ văn lớp 9 nói riêng, tuy giáo viên đã giúp học sinh nắm các yêu cầu về đoạn văn, cách làm bài nghị luận ở từng kiểu bài, nhưng kĩ năng viết đoạn, viết bài nghị luận của học sinh chưa thật thành thạo. Các em còn lúng túng, hành văn chưa mạch lạc, chặt chẽ, nhất là đối với đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống. Bài làm của học sinh thường sơ sài, chung chung, lan man, vừa thừa, vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề. Trong năm học vừa qua được giao trách nhiệm giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, tôi luôn mong muốn nâng cao chất lượng dạy và học văn nói chung, rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản nói riêng cho các em. Vì vậy tôi đã thực hiện đề tài “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9”. Mục đích của tôi khi thực hiện đề tài nhằm góp phần củng cố kĩ năng tạo lập văn bản, nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 9. Như chúng ta đã biết: - Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đúng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn. (SGK Ngữ văn 8 tập I, trang 36). Có thể thấy về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối
  5. dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản (các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định. Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng chữ khác trong đoạn. Để trình bày một đoạn văn cần phải sử dụng các phương pháp lập luận. Lập luận là cách trình bày luận cứ dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ hợp lí thì đoạn văn, bài văn mới có sức thuyết phục. Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu (cách lập luận) phổ biến: diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp bên cạnh đó là cách lập luận suy luận nhân quả, suy luận tương đồng, suy luận tương phản, đòn bẩy, nêu giả thiết - Đoạn diễn dịch là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nội dung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết. - Đoạn quy nạp là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch - đi từ các ý chi tiết, cụ thể đến ý khái quát. Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác minh họa, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung. - Đoạn tổng - phân - hợp là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề. Khi viết đoạn văn tổng - phân - hợp, cần biết cách khái quát, nâng cao để tránh sự trùng lặp của hai câu chốt trong đoạn. - Đoạn lập luận tương đồng là cách trình bày đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng: so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn, có nội dung tương tự nội dung đang nói đến.
  6. - Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung ý tưởng: những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc sống, tương phản nhau. - Đoạn lập luận theo suy luận nhân quả: Có 2 cách: Trình bày nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau. Hoặc ngược lại chỉ ra kết quả trước, trình bày nguyên nhân sau. - Đoạn lập luận đòn bẩy là cách trình bày đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc trái với ý tưởng ( chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra. Các câu trong đoạn văn cũng như các đoạn trong bài phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau về nội dung cũng như hình thức: - Về nội dung: + Các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục vụ chủ đề chung của đoạn văn.( Liên kết chủ đề). + Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo trình tự hợp lí( Liên kết lôgic). - Về hình thức: Các câu, các đoạn văn phải được liên kết với nhau bằng một số biện pháp chính như: + Phép lặp: Lặp lại ở đầu câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước. + Phép thế: Sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước. + Phép nối: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước. + Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã cho ở câu trước. Tất cả những kiến thức lí thuyết trên là cơ sở để tôi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này. Bên cạnh đó tôi cũng khảo sát thực trạng kĩ năng viết đoạn văn của học sinh lớp 9 ở trường THCS Nguyễn Phúc để có giải pháp thực hiện hợp lí, hiệu quả. 2. Cơ sở thực tiễn Trong những năm gần đây kiểu văn nghị luận xã hội đã được chú trọng trong các nhà trường trung học. Bởi văn nghị luận đã trở thành tiêu chí đánh giá đối với học sinh không chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh giỏi, thi vào lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp THPT rồi đến kì thi Đại học. Sự chuyển biến này là cơ hội và cũng là thách thức đối với học sinh. Một thời gian khá dài, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Rèn luyện văn nghị luận xã hội giúp học sinh không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà
  7. còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội. Thế nhưng thách thức đặt ra đối với học sinh và giáo viên cũng không phải là nhỏ. Học sinh quá quen với tư duy văn học, kiến thức về xã hội còn hạn chế, tài liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều, kĩ năng làm bài chưa thuần thục, dung lượng một bài không được quá dài, chỉ được viết trong một thời gian ngắn về một vấn đề trong cuộc sống chứ không phải cố định ở một văn bản trong sách giáo khoa Tất cả những điều đó tạo nên áp lực, gây khó khăn cho học sinh. Mặt khác, như chúng ta đã biết trong cấu trúc đề thi cấp huyện, cấp tỉnh, hay thi vào THPT môn Ngữ văn những năm gần đây đều có câu hỏi, yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn khoảng 300 từ (hoặc một trang giấy thi). Có hai dạng bài cụ thể là: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Học sinh phải biết bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. Ở kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh qua những trải nghiệm của bản thân, trình bày những hiểu biết, ý kiến, quan niệm, cách đánh giá, thái độ của mình về các vấn đề xã hội, từ đó rút ra được bài học (nhận thức và hành động) cho bản thân. Để làm tốt khâu này, học sinh không chỉ biết vận dụng những thao tác cơ bản của bài văn nghị luận (như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ ) mà còn phải biết trang bị cho mình kiến thức về đời sống xã hội . Bài văn nghị luận xã hội nhất thiết phải có dẫn chứng thực tế. Cần tránh tình trạng hoặc không có dẫn chứng hoặc lạm dụng dẫn chứng mà bỏ qua các bước đi khác của quá trình lập luận. Mặt khác với kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh cần làm rõ vấn đề nghị luận, sau đó mới đi vào đánh giá, bình luận, rút ra bài học cho bản thân. Thực tế cho thấy nhiều học sinh mới chỉ dừng lại ở việc làm rõ vấn đề nghị luận mà coi nhẹ khâu thứ hai, vẫn coi là phần trọng tâm của bài nghị luận Vì những yêu cầu trên mà việc rèn luyện giúp cho học sinh có kĩ năng làm tốt một bài văn nghị luận xã hội là một việc làm rất cần thiết. Trong năm học vừa qua, bản thân tôi luôn được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 9, tôi luôn có ý thức trong việc giảng dạy, đặc biệt đã chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài nghị luận nói chung và bài văn nghị luận xã hội nói riêng, vì đây là một vấn đề đang được xem là mới và khó. Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài nghị luận xã hội ở trường THCS hiện nay, để tạo tiền đề cho việc học và làm văn của các em ở các bậc học tiếp theo, tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 9 nắm vững hơn phương
  8. pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của các em. II. Mô tả giải pháp 1. Mô tả giả pháp trước khi tạo ra sáng kiến Thực trạng học và làm bài văn nghị luận nghị luận xã hội đang là một vấn đề được quan tâm trong các trường Trung học cơ sở nói chung và trường THCS Thiệu Thành nói riêng. Theo thống kê và theo dõi kết quả thi học, kì, thi học sinh giỏi, thi vào PHPT của mấy năm gần đây thì chất lượng làm bài môn Ngữ văn của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên phần điểm bị trừ trong bài lại rơi vào phần văn nghị luận xã hội. Nguyên nhân chính là do cách diễn đạt của các em chưa được tốt. Các ý còn chung chung, chưa cụ thể và rõ ràng, kiểu nghị luận này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì các em lại chưa có. Nhiều em còn mắc các lỗi về dùng từ, diễn đạt có em còn xác định sai đề, dẫn đến sai kiến thức cơ bản do suy diễn cảm tính, suy luận chủ quan hoặc tái hiện quá máy móc dập khuôn trong tài liệu, thậm chí có chỗ “râu ông nọ cắm cằm bà kia” nhầm nghị luận về tư tưởng đạo lí sang nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống Sở dĩ chất lượng phần văn nghị luận xã hội còn chưa đạt yêu cầu như vậy là do nhiều nguyên nhân: a. Về giáo viên Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã nắm chắc được cấu trúc của các đề thi học sinh giỏi và thi vào lớp 10, một phần không thể thiếu là câu hỏi liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội, thế nhưng một số giáo viên vẫn cho rằng câu hỏi chỉ chiếm tỉ lệ điểm trong bài khoảng 30% số điểm nên chưa tập trung nhiều để hướng dẫn học sinh, khiến kiến thức cơ bản học sinh nắm chàng màng. Tư tưởng học sinh làm bài lại chỉ chăm chú đến phần nghị luận văn học mà không nghĩ rằng đây là phần dễ đạt điểm tối đa. Hơn nữa lâu nay có khá nhiều học sinh và ngay cả thầy cô cứ nghĩ rằng văn hay là câu chữ phải “bay bỗng”, phải “lung linh”, nghĩa là dùng cho nhiều phép tu từ, nhiều từ “sang”, nhiều thuật ngữ “oách” mà quên rằng văn hay là sự chân thực, sự giản dị, tức là nói những điều mình nghĩ và nói bằng ngôn ngữ bình thường, không cao giọng, không uốn éo làm duyên. b. Về học sinh. Trong những năm gần đây học sinh không hứng thú muốn học môn Ngữ văn, nhất là ngại làm những bài văn. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn khó, lại mất nhiều thời gian, “công thức” làm văn cho các em lại không hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Kĩ năng tạo lập văn bản của học sinh ở trường THCS Thiệu Thành còn kém nhiều và rất hiếm có những bài nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm, luận cứ Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu
  9. thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ đề yêu cầu nghị luận về tư tưởng đạo lí lại làm sang nghị luận về hiện tượng sự việc đời sống. Mặt khác đối với bài nghị luận xã hội dung lượng quy định (chỉ khoảng 300 đến 400 từ hoặc một trang giấy thi) nhiều học sinh vẫn chưa căn được, cứ thế phóng bút viết thậm chí hết nhiều thời gian mà bài lại không cô đọng, súc tích. Một điều nữa mà ta dễ dàng nhận thấy khi dạy kiểu bài này các em đều quan niệm là bài văn “khô khan” nên bài viết chưa có sức hút, chưa lay động được tâm hồn người đọc. Ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp hẫn là ở chất lượng. Mà chất lượng một bài văn phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: Cách lập luận, dùng từ, câu Kết quả khảo sát qua bài làm của học sinh lớp 9C năm học 2022-2023 trước khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như sau: Năm học Tổng số Điểm 8 -10 Điểm 5 trở Điểm dưới Điểm học sinh lên 5 dưới 2 2022-2023 38 2 29 9 2 Kết quả trên đây cho thấy nguyên nhân mấu chốt là học sinh phần nhiều chưa biết làm bài văn nghị luận tốt. Vậy nên việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội là rất cần thiết. 2. Mô tả giải pháp dau khi có sáng kiến Để học sinh có kĩ năng làm bài nghị luận xã hội tốt. Tôi thực hiện các bước sau: 2.1. Làm công tác tư tưởng cho học sinh (định hướng) Trước hết giáo viên cần phải dập tắt trong các em quan niệm: Văn nghị luận là loại văn “khô khan” là chưa hợp lí, vì ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp dẫn là ở chất lượng. Tiểu thuyết mà viết dở thì cũng khô khan mà thôi. Chất lượng một bài văn nghị luận phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: cách lập luận, dùng từ, câu Cảm hứng là yếu tố đầu tiên. Sau là phải có kiến thức: Có thể việc hiểu biết về vấn đề cần bàn càng phong phú thì càng dễ cho mình “tung hoành” trong bài viết. Kiến thức phong phú cũng có nghĩa là mình nắm được lẽ phải, giúp cho mình đưa ra những luận điểm chắc chắn, giàu sức thuyết phục, không thể bác bỏ như cố nhân đã tổng kết: “Nói phải củ cải cũng nghe”. Trái lại nếu kiến thức nghèo nàn hay sáo rỗng thì bài văn nhạt nhẽo, nặng nề, hô khẩu hiệu. Cần nhớ rằng văn nghị luận là làm sao để người khác “Tâm phục khẩu phục” chứ không phải áp đặt cách hiểu của mình cho người khác. Khi kiến thức đã phong phú thì các yếu tố kĩ thuật của văn bản, về cơ bản sẽ biết sử dụng một cách tự nhiên. Bởi vì một triết gia đã nói “Cái gì được quan niệm rõ ràng thì diễn đạt sẽ mạch lạc”. Việc trau dồi và cẩn trọng trong công tác kĩ thuật thì không bao giờ thừa. Luôn luôn phải cân nhắc, sắp xếp cái nào trước, cái nào sau, chọn đi chọn lại từ nào cho chuẩn xác, sinh động. 2.2. Khắc sâu kiến thức lí thuyết về bài văn nghị luận xã hội.
  10. Về kiểu bài nghị luận xã hội, Bộ giáo dục và Đào tạo đã quy định trong cấu trúc đề thi năm 2010. Theo đó, học sinh phải vận dụng kiến thức xã hội và đời sống viết bài nghị luận xã hội (khoảng 300 từ) đối với học sinh THCS, (khoảng 600 từ) đối với học sinh THPT. Vì vậy muốn làm tốt kiểu bài này trước hết giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm chắc phần lí thuyết thì mới vận dụng tốt trong khi làm bài. Kiểu bài này có hai dạng bài cụ thể là: + Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. + Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Học sinh cần bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. a. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. *Khái niệm: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng, đời sống xã hội là nêu ý kiến của mình, bàn luận, đánh giá của mình về sự việc, hiện tượng ấy. *Yêu cầu: - Nội dung: Phải trình bày rõ nội dung, bản chất của sự việc,hiện tượng, phải trình bày rõ thái độ, ý kiến của người viết về mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó. - Hình thức: Sự bàn luận, đánh giá phải có luận điểm rõ ràng, được trình bày bằng các luận cứ xác thực, bằng các phép lập luận phù hợp. - Lời văn có sức thuyết phục. * Bố cục: Bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống cũng phải đảm bảo các phần chặt chẽ, mạch lạc theo yêu cầu chung của một bài văn nghị luận. Các Nhiệm vụ Cách viết phần Mở đoạn Dẫn dắt và nêu vấn đề - Yêu cầu: Giới thiệu ngắn gọn, đi thẳng cần bàn vào vấn đề bằng một câu mang tính khái quát. - Cách viết: + Dẫn dắt từ câu nói hoặc hiện tượng đời sống được đưa ra. + Ghi lại vấn đề được đặt ra ( Trích dẫn câu nói, lời nhận xét đã đưa ra ở đề bài) Thân Giải thích từ ngữ để Giải thích ý nghĩa một cách ngắn gọn từ đoạn làm bật lên vấn đề nghị ngữ hay hiện tượng. luận ( Nếu cần) Nêu biểu hiện, thực Nêu rõ các sự việc ( diễn ra như thế nào, ở trạng đâu, tính phổ biến) có kèm theo số liệu cụ
  11. thể. Nêu rõ tác hại / tác Những ảnh hưởng xấu( Tốt) tới đời sống dụng của hiện tượng của mỗi cá nhân, toàn xã hội. Phân tích nguyên nhân Nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đễ hiện tượng trên Đề xuất giải pháp khắc - Làm thế nào để thay đổi nhận thức, tư phục hoặc biện pháp tưởng tình cảm của mỗi người từ đó thay nhân rộng đổi về hành động góp phần xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn Rút ra bài học cho bản Bản thân nhận thức được điều gì? hấy thân. mình phải làm gì.? Kết đoạn tổng kết vấn đề: Khẳng định ý nghĩa và tính thời sự của hiện tượng Ví dụ cụ thể: Bài tập: Đọc bản tin sau và thực hiện những yêu cầu ở dưới Cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phát triển của mạng xã hội như Facebook, Youtube ngày nay người ta có thể dễ dàng trở nên nổi tiếng. Có những người nổi tiếng vì tài năng thực, song cũng có không ít những cô gái cực "hot", cực nổi trên mạng, nhưng lại rất "chìm" ở đời thực. Những ảo tưởng, huyễn hoặc về giá trị của bản thân đã gây nên bao chuyện bi hài cho những hot girl sống ảo. Theo ký ức của bạn bè, T. vốn có nước da ngăm ngăm, người béo trục béo tròn và khuôn mặt thì hao hao cái bánh bao. Thế nhưng trái ngược với ký ức đó, tất cả các hình ảnh của T. trên facebook của nàng đều xinh lung linh, cứ ngỡ là hot girl 9x nào đó chứ không phải cô bạn quê mùa ngày xưa. Này là nước da trắng mịn như da em bé, khuôn mặt chuẩn V-line, đôi mắt to, hàng mi cong, cánh mũi thẳng, bờ vai trắng như cẩm thạch Nhiều người comment hỏi có phải là Ngọc T. đấy không thì chủ nhân facebook chỉ ỡm ờ: "Không T. thì còn ai vào đây nữa!". Có một điều lạ là trong khi bạn bè cùng lứa đều đã gia đình đề huề, song T. vẫn đi về lẻ bóng. Hỏi thì T. bảo do cao số. Nhưng theo một người em họ của T. thì lý do mà cô gái này lâm vào tình cảnh "tồn kho mất chìa khóa" chả phải do cao số thấp số gì cả, mà là do "chị T. sống ảo quá". (Theo báo điện tử Dân Trí: Bi hài "hot girl" sống "ảo") Viết một bài văn khoảng 600 từ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về hiện tượng được đề cập đến trong bài báo trên. - Tìm hiểu đề , tìm ý. + Hiện tượng nghị luận: Sống ảo.( Luận điểm xuất phát) + Các luận điểm triển khai:
  12. • Giải thích sống ảo là gì? • Biểu hiện của sống ảo. • Nguyên nhân đến việc giới trẻ thích sống ảo. • Hậu quả của việc sống ảo. • Mộ số giải pháp để hạn chế hiện tượng. • Bài học nhận thức của bản thân. • Nêu kết luận về vấn đề. - Lập dàn ý Các Nhiệm vụ Cách viết phần Mở Dẫn dắt và - Dẫn: Chúng ta đang sống trong thời đại của công nghệ đoạn nêu hiện thông tin, mạng xã hội là nơi để mọi người giao lưu học tượng sống hỏi. Tuy nhiên thật đáng tiếc khi có nhiều bạn trẻ do quá ảo trong lạm dụng các ứng dụng tiện lợi đó mà đang có lối sống giới trẻ không lành mạnh, đó là sống ảo. hiện nay. - Nêu vẫn đề: Đề cập đến vấn đề này, báo điện tử Dân Trí có bài: Bi hài "hot girl" sống "ảo", đây cũng là vấn đề mà toàn xã hội đnag quan tâm. . Thân Giải thích Sống ảo là sống trong hoang tưởng không đúng với thực tại đoạn từ ngữ để của cuộc sống. Những người sống ảo luôn nghĩ mình đang làm bật lên kết bạn đang giao lưu với cả thế giới trong khi không cần vấn đề nghị một người bạn bên cạnh, không tham gia những chương luận ( Nếu trình ngoại khóa cần) Nêu biểu - Trong giới trẻ hiện nay, thói quen sống ảo dường như đã hiện, thực trở nên phổ biến. Ta có thể thấy các bạn có thể ngồi hàng trạng giờ để nhắn tin với những người mới quen mà quên đi các bạn của mình, tự xây cho mình thế giới tuyệt đẹp đẻ đắm chìm trong đó. - Ta dễ dàng bắt gặp ở những người bạn quanh mình những mối tình ảo, các mối quan hệ ảo theo kiểu ngôn tình - Để gây sự chú ý của mọi người, nhiều bạn trẻ đã chìm trong cuộc sống ảo với những trò lố khoe tiền, đồ hiệu, giả chết, khoe những hình ảnh nóng lên các trang mạng xã hội. Hay dùng những lời nói không văn minh để thể hiện mình hay gọi theo cách khác là "anh hùng bàn phím" đã gây ra nhiều mâu thuẫn. - Đã có nhiều vụ việc dở khóc dở cười quanh việc sống ảo, bạn có biết câu chuyện của cô gái Lê Thị Tú Ngà có tài
  13. khoản Facebook tên Lê Khả Ái đã làm dậy sóng cộng đồng mạng khi nhìn thấy mặt mộc của cô gái. Nêu rõ tác - Những viễn cảnh cuộc sống viển vông, khác xa với cuộc hại / tác sống thực tại đã ăn sâu vào tâm trí một bộ phận không nhỏ dụng của trong giới trẻ và thật đáng quan ngại khi hầu hết ít bạn hiện tượng kiểm soát được - Sống ảo mang đến nhiều hệ luỵ cho cọn người. Có nhiều bạn xem phải những thông tin, hình ảnh không đúng mà có lối sống sai lệch, tinh thần không ổn định. Có hiện tượng phổ biến là nhiều bạn yêu trên mạng. Đây không phải là điều sai nhưng liệu bạn đã đủ chín chắn và thông minh để biết đây là tình yêu thật sự hay là sự thật đây chỉ là để lừa đảo? Nhiều bạn đã nhẹ dạ cả tin mà tin vào những lời đường mật của một người chưa hề gặp rồi khi biết rằng chàng trai bạn hằng yêu thương chỉ mang tên lừa đảo. Thật sự có rất nhiều mối nguy hiểm mà bạn không lường trước được. Bạn có thể ngồi hàng giờ để lên mạng, chìm đắm trong thế giới ảo và xa lánh thế giới thật. Các bạn trẻ sẽ khi bước ra thế giới thật cảm thấy thật lạ lẫm, không xác định được hướng đi của mình. Đã dẫn đến tình cảm của con và bố mẹ ngày càng rạn nứt, bạn bè xa dần nhau. Và quan trọng là việc học của các bạn sẽ giảm sút, thành tích đi xuống hay nói cách khác việc đỗ đại học là quá xa vời. Phân tích - Tuổi trẻ với nhiều suy nghĩ bốc đồng, nông nổi của tuổi nguyên mới lớn, thiếu sự chín chắn, vậy nên chỉ với những lời nhân khiển trách từ cha mẹ, thầy cô, cả thế giới dường như sụp đổ. Và thế giới ảo là nơi tìm đến của những tâm hồn đang yếu đuối, suy sụp. Lúc đầu, thế giới ảo chỉ là nơi những bạn trẻ tìm đến khi mỏi mệt, để giải tỏa nỗi lòng nhưng dần dần dựa dẫm, lệ thuộc vào nó, hèn nhát đối diện với sự thật. Và như vậy thói quen sống ảo dần hình thành, chi phối cuộc sống không ít bạn trẻ. - Đương nhiên cũng không thể chỉ quy chụp nguyên nhân do sự nông nổi của tuổi trẻ, cuộc sống với guồng quay tất bật, trong chúng ta không ai tránh khỏi được những áp lực bủa vây từ việc học tập, bạn bè rồi gia đình. Ngoài ra do sự phát triển của công nghệ thông tin – con dao hai lưỡi, giới trẻ với sự hiếu kỳ, tò mò, những tính năng mới rồi vội chạy đua vô thức theo những giá trị tinh
  14. thần mà không có sự kiểm soát của lý trí, ý thức tự chủ còn hời hợt. Sự quan tâm, quản lý, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội còn nhiều thiếu sót cũng là một nguyên nhân. Giải pháp - Vấn đề chính là mục đích, liều lượng và cách sử dụng thói quen sống ảo, đòi hỏi ở chúng ta một bản lĩnh. Chúng ta cũng cần phê phán những kẻ lạm dụng việc sống ảo, đồng thời dẫn dắt họ ra khỏi vùng tăm tối đang che mắt họ. - Bạn và tôi, chúng ta hãy mở lòng với cuộc đời thực, sống thật để trưởng thành hơn. Rồi bạn sẽ thấy thể giới ngoài kia dù nhiều khi làm bạn vấp ngã nhưng dẫu sao nó vẫn sinh động hơn nhiều so với thế giới ảo. - Chúng ta cần rèn luyện cho mình một bản lĩnh sống rắn thép để vượt qua mọi cám dỗ, hãy thẳng thắn sống với hoàn cảnh và thân thế của mình. Nhút nhát, trốn chạy chẳng thể giải quyết được vấn đề. Rút ra bài Bản thân em thấy mình phải làm gì? học Kết Tổng kết - Thói quen sống ảo nếu không có sự giám sát, quản lý của đoạn vấn đề: lý trí, nó sẽ biến thành một loại axit, ăn mòn dần tuổi trẻ của chúng ta. Là người trẻ tuổi, đã có lúc tôi cũng cho phép mình bước vào thế giới ảo, sống trong đó ít lâu nhưng chưa bao giờ cho phép lý trí mình ngủ quên ở thế giới ấy b. Nghị luận về một vấn đề về tư tưởng đạo lí. * Khái niệm: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con người. *Yêu cầu: - Về nội dung: Làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích để chỉ ra chỗ đúng (hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó nhằm khẳng định tư tưởng của người viết. -Về hình thức: Bài văn phải có bố cục 3 phần rõ ràng, luận điểm đúng đắn, lập luận chặt chẽ, mạch lạc. -Lời văn: Rõ ràng, sinh động. * Bố cục: Các phần Nhiệm vụ Cách viết Mở bài Nêu tư – Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận tưởng, đạo – Nêu vấn đề cần nghị luận ra ( trích dẫn)