Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ

pdf 20 trang Đan Tâm 01/02/2025 1110
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_lam_bai_van_nghi_luan_ve_d.pdf

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ

  1. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Trường THCS Xuân Thành Thứ 2, 08/06/2020 | 12:54 Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: 1.1 Lí do chọn đề tài: Rèn kĩ năng làm văn nghị luận về tác phẩm văn học không chỉ xuất phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành tổng hợp cao) trong nhà trường THCS mà còn là nhiệm vụ của người giáo viên trong việc dạy học sinh suốt năm học, nhất là qua việc kiểm tra định kì, kiểm tra cuối năm, thi học sinh giỏi, thi khảo sát học sinh, thi vào lớp10 THPT Điều quan trọng nhất khi viết bài văn nghị luận về tác phẩm văn học là học sinh phải nắm vững các thao tác, cách thức trình bày bài văn nghị luận, để từ các kĩ năng viết bài phát triển thành kĩ xảo, thói quen khi làm văn. Nghị luận văn học gồm hai dạng cơ bản: Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích và Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Nhiều năm qua, tôi trực tiếp đứng lớp, nắm bắt kĩ năng viết văn của từng học sinh theo khóa học. Đồng nghiệp – cũng như tôi còn rất nhiều băn khoăn, trăn trở, khi đọc những bài viết của các em cảm nhận về đoạn thơ, bài thơ. Học sinh còn vụng về trong cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn cách khai thác nội dung, nghệ thuật thơ, hành văn chưa mạch lạc, chưa chặt chẽ, còn sơ sài, suy diễn chung chung, vừa thừa vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề, không biết xây dựng luận điểm Là giáo viên dạy văn, tôi thực sự lo lắng về thực trạng này. Trong chương trình Ngữ văn lớp 6-7-8 các em đã tiếp cận với số lượng văn bản thơ không nhỏ xong không có thời lượng cho thực hành, chủ yếu được giáo viên lồng ghép trong các bài giảng văn bản. Vì vậy, nhận thức về kiến thức tạo lập văn bản rất mờ nhạt, học sinh chưa hiểu được khái niệm kiểu bài, thể loại, chưa định hình việc tạo lập văn bản nghị luận thơ là gì. Đến Ngữ văn 9, số tiết dành cho thực hành viết nghị luận về thơ rất khiêm tốn (1tiết), luyện nói (2tiết). Số tiết học giảng văn bản thơ tới 19 tiết, chênh lệch lí luận và thực hành rất lớn. Do vậy, học sinh khó nắm bắt được kĩ năng viết nghị luận về đoạn thơ, bài thơ đồng nghĩa hiệu quả viết bài dạng tập làm văn này không cao. Hiện tại, chưa có nhiều tài liệu chính thống, nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, nhà trường, giáo viên còn lúng túng, khó khăn giải quyết, khắc phục hạn chế của học sinh khi làm dạng văn này. Học văn là học cách làm người: biết yêu thương, căm thù, giận hờn biết sẻ chia bởi thơ là điệu nhạc của tâm hồn, là kết tinh tiếng lòng người nghệ sỹ, biểu hiện trong ngôn từ nghệ thuật đặc biệt: cô đọng, hàm xúc và tinh tế. Hiểu được thơ, cảm được thơ không dễ, phải có một tâm hồn đồng điệu, một năng khiếu trời cho, một lòng say văn thực sự Có vậy, ta mới dễ hòa nhịp đập trái tim với tiếng lòng của người nghệ sỹ. Nói 1 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  2. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ như nhà thơ Xuân Diệu: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác”, “hồn” là nội dung ý nghĩa, “xác” là nghệ thuật của thơ. Nhưng làm thế nào để học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp về “xác” và “hồn” thơ ấy? Điều đó thật không dễ! Và những bài viết của các em một phần thể hiện tâm hồn, suy nghĩ, cách cảm, cách hiểu về thế giới quan, nhân sinh quan. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giáo dục ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên cần đặc biệt chú trọng hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ theo chuẩn kiến thức và kĩ năng. Đúc rút từ thực tế học văn, dạy văn, tôi có suy nghĩ đúc kết kinh nghiệm hướng dẫn học sinh “Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ”. Đây hoàn toàn không phải là vấn đề mới, thực tế có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả tên tuổi như Nguyễn Khắc Viện, Trần Đình Sử Căn cứ vào tài liệu chính thống trong nhà trường từ: Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9 đã cung cấp cho học sinh những kiến thức lí luận chung cách Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ như: khái niệm, yêu cầu, các bước làm bài, nhiệm vụ từng phần theo bố cục bài văn Đó chính là những cơ sở lí luận có tác dụng định hướng cho việc nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp nhằm khắc phục mâu thuẫn, khó khăn, tồn tại. Tuy nhiên, những bài viết ấy còn lí thuyết chung, chưa cụ thể, hoặc chưa phù hợp với đặc điểm bộ môn và tiếp nhận của học sinh địa phương. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Mục đích của tôi khi thực hiện đề tài này nhằm góp phần củng cố kỹ năng tạo lập văn bản, kỹ năng viết tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 9, nâng cao kết quả thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn của trường THCS. Bồi đắp niềm tin, tình yêu thơ văn cho học sinh. 1.3 Đối tượng nghiên cứu: - Là những học sinh đang theo học lớp 9. - Phạm vi thực hiện: ứng dụng vào các tiết học văn học, tập làm văn, các buổi học bồi dưỡng, phụ đạo buổi chiều và ôn thi vào lớp 10 THPT. - Đề tài nhiên cứu tìm hiểu sâu hơn, phát hiện và ứng dụng những giải pháp nâng cao hiệu quả kỹ năng nghị luận thơ. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu - Điều tra khảo sát nắm bắt tình hình thực tế. - Tiến hành thực nghiệm trong các tiết dạy. - Dạy học trực quan (gắn lí thuyết và thực hành cụ thể). II. Mô tả giải pháp: 1. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Thực tế, Sách giáo khoa, sách giáo viên, phân phối chương trình Ngữ Văn 9 ở phân môn làm văn chỉ có 2 tiết (tiết 124 - tiết 125) trang bị kiến thức lí luận cho học sinh về nghị luận thơ, 2 tiết luyện nói (tiết 139 - tiết 140) và phân môn giảng văn bản có 19 tiết /14 tác phẩm thơ và 1 tiết kiểm tra thơ. Như vậy, chênh lệch số tiết thực hành tập làm văn và giảng văn rất lớn. Điều đó hạn chế khả năng hình thành kỹ năng nghị luận về thơ của học sinh. Thực tế nhiều học sinh kêu ca: “học thơ khó, phân tích thơ cũng khó”. Hiểu thơ thế nào cho đúng, cho trúng? Mỗi tiết học chỉ có 45 phút, cái khó của người giáo viên là làm sao cho học sinh hiểu, khắc 2 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  3. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ sâu kiến thức liên quan đến tác phẩm. Mỗi tiết kiểm tra định kì là 45 phút – 90 phút số học sinh viết có bố cục, có nội dung, có độ sắc thật khiêm tốn. Nhiều em còn chưa biết hình thành câu, đoạn, chưa có kĩ năng xây dựng luận điểm hoặc đưa ra luận điểm nhưng chưa biết vận dụng các phép lập luận, chưa tìm được luận cứ, bước khái quát nâng cao vấn đề bị bỏ qua Tất cả những hạn chế đó xuất phát từ những kiến thức lí luận còn nghèo nàn thậm chí xem thường các tiết học Tập làm văn . Thực tế tập làm văn là tiết khó: khó dạy, khó học. Giáo viên ngại dạy. Học sinh ngại học hay cho rằng chỉ cần có năng khiếu là học được, viết được Đây là cách hiểu không sai nhưng chưa chính xác. Năng khiếu là cái trời cho nhưng nếu có năng khiếu mà không rèn dũa, tìm tòi phát huy nâng cao, không có kiến thức lí luận cơ bản thì viết bài nghị luận khó cho đúng, cho hay Thực trạng trong những năm gần đây, học sinh khối lớp 9 viết bài tập làm văn kiểu bài Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ thường khô cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy móc .Các em thường dựa vào văn mẫu hoặc dựa vào các ý trong đề cương hay trong dàn ý thầy cô cho sẵn mà viết lại nên rất hạn chế về mạch cảm xúc (không chân thật, còn gượng ép ). Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, ý sâu sắc, ý hay do chính bản thân các em cảm nhận, thật sự rung động với tác phẩm. Vào đầu năm học, tôi khảo sát kĩ năng nghị luận thơ của học sinh qua bài tập nhỏ: + Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về một đoạn thơ đã học ? + Vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật qua một bài thơ đã học ? Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy số học sinh không có kĩ năng nghị luận viết bài còn nhiều, số học sinh có kĩ năng viết đoạn thành thạo còn ít. Trên bài làm của hầu hết các em thể hiện việc nắm kiến thức lí luận còn lơ mơ. Do vậy để khắc phục hạn chế của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi giáo viên phải có những giải pháp hợp lí. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Dưới đây là một vài kinh nghiệm hướng dẫn học sinh kỹ năng làm bài văn Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ mà bản thân tôi - một giáo viên trực tiếp giảng dạy Ngữ văn 9 đã đúc kết được qua nhiều năm . 2.1. Đặc điểm chung Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy. Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ hình ảnh, giọng điệu Bài nghị luận cần phân tích những yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể xác đáng. 2.2 Yêu cầu cơ bản khi làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Muốn làm tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cần có năng lực cảm thụ văn chương, đồng thời phải nắm vững, thành thục phương pháp làm một bài văn nghị luận. Bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cần gắn với sự cảm thụ, bình giảng, chỉ ra những nhận xét, đánh giá cái hay, cái đẹp cụ thể của tác phẩm (về nội dung cảm xúc, về ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu ) Tìm hiểu phân tích thơ là một việc khó, đánh giá về thơ lại càng khó và phức tạp hơn bởi lẽ thơ là sản phẩm của cảm xúc, trí tưởng tượng mang dấu ấn cá nhân. 3 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  4. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Quá trình tiếp nhận thơ ca cũng đồng thời là một quá trình tiếp nhận mang tính chủ quan sâu sắc. Vì vậy, bài nghị luận cần có sự kết hợp giữa việc trình bày hiểu biết về những “dấu ấn cá nhân” của tác giả, đồng thời phải nói nên được những cảm nhận, đánh giá chủ quan của người viết. Kiến thức thể hiện trong một bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là kiến thức tổng hợp, kết hợp của nhiều hiểu biết trong đó có hiểu biết về đặc trưng thể loại, về tác giả, về hoàn cảnh sáng tác Vấn đề bám sát vào đặc trưng thể loại thơ (đặc trưng về từ ngữ, hình ảnh, cách ngắt nhịp, cấu tứ ) để phân tích nghị luận là rất quan trọng. Khi giới thiệu bài thơ nên để ở phần mở bài với tên bài thơ. Để tìm hiểu giá trị bài thơ (bao gồm giá trị nội dung và nghệ thuật). Học sinh có thể chọn cách phân tích cắt ngang (tức là theo bố cục- các đoạn thơ), hoặc bổ dọc (tức là theo các ý trong bài thơ). Với cách phân tích thứ nhất, cần nắm chắc bố cục của bài thơ, từ đó phân tích từng đoạn cho đến hết bài thơ. Còn cách thứ 2 trước hết cần bao quát được hệ thống ý (cũng có thể đó là những biểu hiện diễn biến cảm xúc của nhân vật trữ tình), sau đó tập hợp phân tích những câu thơ có cùng nôi dung cảm xúc ấy. Quá trình phân tích, cảm nhận phải theo một trình tự từ nghệ thuật đến nội dung. Đây là quá trình đi ngược lại với quá trình sáng tác của nhà thơ, là quá trình trong việc góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Người đọc tự giải mã những tín hiệu ngôn ngữ để tìm đến tư tưởng, nội dung cảm xúc mà nhà thơ gửi gắm. Đồng thời cần đánh giá được vị trí vai trò của đoạn thơ. Bài văn nghị luận cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc, những luận cứ đúng đắn, sinh động và lập luận thuyết phục. Lời văn bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cần chuẩn xác trong sáng, thể hiện rung cảm chân thành, tự nhiên của người viết. Năng lực nghị luận thơ tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ hiểu biết văn chương, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ diễn đạt cũng như các thao tác, phương pháp, kiến thức lí luận Viết bài văn nghị luận đúng, trúng và hay bao giờ cũng dành cho người nắm được kĩ năng. Nghị luận thơ mà không có phương pháp thì khó bề đặt chân đến bờ chân - thiện - mĩ của thi phẩm. Muốn vậy, Giáo viên cần hiểu biết vững sâu về thơ, có nhiệm vụ cung cấp vốn kiến thức lí luận về thơ cho học sinh. Cung cấp kiến thức các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cần chú ý khi nghị luận về thơ: Giáo viên chỉ ra cho học sinh nắm được các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật mà nhà thơ thường dùng để biểu hiện tình cảm, tư tưởng qua: Ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp tu từ, thể thơ, nhan đề Và những điều lưu ý khi phân tích các yếu tố ấy. Kiến thức lí luận chung này rất quan trọng giúp học sinh làm quen và dần khắc sâu kỹ năng phân tích thơ. a. Ngôn ngữ Thơ Ngôn ngữ trong thơ thường cô đọng, hàm súc lời ít ý nhiều mang dấu ấn riêng của mỗi người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ phải chính xác, giàu hình tượng và biểu cảm tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không có cách nào khác là nhờ vào hệ thống này. “Văn học là nghệ thuật ngôn từ” do tầm quan trọng ấy mà người ta xem nhà văn nhà thơ là người lao động chữ nghĩa. Không cần lý giải dài dòng vẫn thấy vai trò quan trọng của từ ngữ thơ. Đó là những từ “sáng”, từ “đắt”, những “ nhãn tự” làm nên giá trị nội dung thơ . 4 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  5. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Giáo viên cần chỉ ra cho hoc sinh chú ý không thoát li từ ngữ, phát hiện và phân tích từ ngữ thơ bằng cách đặt ra các câu hỏi: - Tại sao tác giả không dùng từ này mà lại là từ khác ? Ví dụ : “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió xe” (Sang Thu - Hữu Thỉnh) - “Phả”: động từ có nghĩa là tỏa vào trộn lẫn. Người ta có thể dùng các từ: lan, tan, bay, tỏa thay cho từ “phả” nhưng cả bấy nhiêu từ không có cái nghĩa đột ngột bất ngờ Từ “phả“cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm đặc nhất, thơm nồng quyến rũ hòa trong gió heo may lan tỏa khắp không gian tạo nên mùi hương ngọt mát của những trái ổi chín vàng rộ, gợi ta liên tưởng đến những khu vườn xum xuê trái ngọt ở nông thôn Bắc Bộ. Hay câu thơ : “Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật ) “chông chênh” là từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tư thế không bằng phẳng, không chắc chắn, gợi sự nguy hiểm của người lính trên đường lái xe ra tuyền tuyến. Đây là nét vẽ hiện thực được Phạm Tiến Duật tái hiện lại cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu cam go họ phải ăn - những bữa ăn vội vàng, xoàng xĩnh, phải ngủ - những giấc ngủ tranh thủ, ngắn ngủi trên xe hay dọc đường đi giữa làn mưa bom bão đạn quân thù Song từ: “chông chênh”còn gợi tả phong thái ung dung của người lính. Bom đạn của quân thù không thể hủy diệt sự sống ngược lại sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại bất diệt trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng của chính nghĩa Như vậy, từ ngữ thơ mang thần thái của thi phẩm và tài năng thơ của người sáng tác. b. Hình ảnh thơ : Hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà chính sự chọn lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, giàu sức gợi có tính hàm xúc, thể hiện tư tưởng, tinh thần, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Khi giảng văn, giáo viên gợi cho học sinh nhận ra đâu là hình ảnh cần phân tích, cảm nhận . Ví dụ : Viết về mùa xuân, Nguyễn Du đã miêu tả hình ảnh nào? Cảm nhận của em về bức tranh mùa xuân qua các hình ảnh ấy? “Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.” (Truyện Kiều - Nguyễn Du ) Viết về Mùa xuân chỉ bằng hai câu thơ tuyệt bút, Nguyễn Du đã phác họa bức tranh xuân tươi tắn, tràn ngập ánh sáng, màu sắc. Hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: thảm cỏ non xanh vô tận chân trời là gam nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy, điểm xuyết vài bông hoa lê trắng, màu sắc hài hòa tới mức tuyệt đối: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, tinh khiết (vài bông hoa trắng ). Chữ “ điểm”làm cho cảnh vật trở 5 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  6. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ nên sinh động chứ không tĩnh tại. c. Giọng điệu: “Giọng điệu trong thơ là một phương diện biểu hiện quá trình chủ thể sáng tạo. Giọng điệu thể hiện thái độ lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến”(Thuật ngữ văn học ) Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận ra giọng điệu của từng nhà thơ qua đọc hiểu văn bản để thấy được phong cách sáng tác, cái khác biệt của người nghệ sĩ. Từ đó nhận ra đặc điểm âm hưởng thơ của một thời đại văn học, một giai đoạn lịch sử dân tộc, cốt cách tâm hồn một lớp thế hệ, một địa phương. Giọng điệu được thể hiện qua nhịp thơ, ngôn ngữ thơ và nội dung thơ Ví dụ : Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang tính khẩu ngữ, đậm chất lính tráng, khoẻ khoắn, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. “Không có kính, ừ thì có bụi. Bụi phun tóc trắng như người già. Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. ( Bài thơ về Tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật) Giọng điệu thơ Thanh Hải tha thiết, trìu mến, trữ tình như hồn phách con người cố đô: “Ơi con chim chiền chiện. Hót chi mà vang trời. Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng.” (Mùa Xuân nho nhỏ - Thanh Hải) Thơ Viễn Phương chân thành, nhẹ nhàng, giọng điệu trang trọng và thiết tha tinh tế, giàu cảm xúc. Thơ Y Phương đẹp như một bức tranh thổ cẩm nhiều màu sắc, mang cái hồn cái vía của con người vùng cao. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà thường khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên rất gần gũi với người đọc Nắm được đặc điểm giọng điệu của từng nhà thơ, làm rõ đặc điểm đó qua văn bản đôi khi chỉ cần một khổ thơ cũng đủ minh chứng cho phong cách thơ tác giả ấy. d. Biện pháp tu từ: Muốn làm bài văn phân tích thơ đúng, hay và sâu, học sinh phải có kiến thức vững về tiếng việt, nhận biết và cảm được vai trò của biện pháp tu từ trong việc diễn đạt nội dung thơ. Các biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn học. Phân tích biện pháp tu từ chính là chỉ ra 6 tính hiệu quả của cách viết, cách nói ấy chứ không đơn thuần là gọi được tên, liệt kê các biện pháp mà nhà thơ sử dụng. Giáo viên cung cấp kiến thức khái niệm lí luận về các biện pháp tu từ trên kết hợp với dẫn chúng cụ thể, giao bài tập thực hành kiểm tra đánh giá kết quả (kiến thức về biện pháp tu từ các em đã học từ lớp 6,7,8 vì vậy thông qua các tiết giảng văn giáo viên lồng ghép để khắc sâu kiến thức thêm.) 6 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  7. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ * Ví dụ về biện pháp tu từ so sánh: Biện pháp nghệ thuật này khá phổ biến trong thơ. Thế mạnh của biện pháp so sánh góp phần gợi ra trí tưởng tượng của người đọc những hình ảnh cụ thể, những liên tưởng thú vị, chính xác về đối tượng được nói đến. Ví dụ: Nguyễn Du sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả không khí tết Thanh minh? Câu thơ: “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm” (Truyện Kiều -Nguyễn Du) - “Ngựa xe như nước’, Nguyễn Du mượn dòng nước để tả dòng ngựa xe tấp nập trong tết thanh minh. “Quần áo” là hình ảnh hoán dụ chỉ con người. Câu thơ đã diễn tả không khí nhộn nhịp của tết thanh minh. Người đông đúc, san sát với nhau, còn ngựa xe thì tấp nập trên mọi ngả đường. Cái vui chung hướng ngoại ấy làm nền cho cái buồn riêng của Kiều (khi Kiều gặp mộ Đạm Tiên và được Đạm Tiên báo mộng). Ví dụ: Cảm nhận khổ thơ đầu bài thơ: “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và ấn tượng. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then cài cửa. Bóng tối dần bao trùm nhưng biển cả không kì bí mà đẹp đẽ, thân thiện, là người bạn lớn của con người. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Câu hát căng buồn cùng gió khơi”. Đoàn thuyền chứ không phải chỉ một con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên biển. Chữ “lại”vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài thường xuyên, thói quen thành nề nếp, vừa thể hiện sự đối lập đất trời đi vào trạng thái nghỉ ngơi cũng là lúc bắt đầu công việc của người ngư dân. Tác giả đã vẽ nên một hình ảnh khỏe, gắn kết ba sự vật: Câu hát, cánh buồm và gió khơi. Người ngư dân căng buồm và cất câu hát lên, nhà thơ có cảm giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động được làm chủ biển trời quê hương đất nước trở thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi. * Ví dụ về biện pháp tu từ ẩn dụ: Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực: Đó là niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi trong tâm trạng đầy hứng khởi vì họ tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và say mê với công việc chinh phục và làm giàu cho Tổ quốc Tóm lại, biện pháp tu từ có thế mạnh riêng trong cách biểu đạt tình cảm nội dung thơ. Khi nghị luận thơ giáo viên chỉ cho học sinh biết chú ý khai thác tác dụng đúng mức của các biện pháp này thì bài viết sẽ sâu hơn, tròn trịa hơn. Hay ý nghĩa biểu tượng hình ảnh “Bếp lửa” trong bài thơ cùng tên của Bằng Việt: Bếp lửa là hình ảnh ẩn dụ đẹp. Hình ảnh thân quen trong mỗi gia đình gợi sự ấm nóng, no đủ và không khí sinh hoạt đầm ấm ở mỗi làng quê. Bếp lửa tỏa sáng câu thơ, lung linh chân dung người bà, tâm hồn bà, là ngọn lửa của tình yêu thương của niềm tin, của sức sống bền bỉ, là ý chí nghị lực phi thường trong bà. Bếp lửa chuyển thành “ngọn lửa” biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt. Bà 7 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  8. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ luôn ủ sẵn và truyền vào tim cháu tự nhiên như hơi thở, sự sống. Ngọn lửa ở đây không chỉ được nhen lên bằng rơm, bằng củi mà còn là ngọn lửa thiêng thiêng trong lòng bà, ngọn lửa của tình yêu thương. Giáo viên cũng cần lưu ý với các em, trong quá trình nghị luận cần phân tích kết hợp tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong khổ thơ, bài thơ cho việc diễn đạt nội dung thơ. Việc cung cấp kiến thức lí luận chung - những chú ý nội dung, nghệ thuật khi nghị luận về thơ giúp các em có cái nhìn tổng quan hơn về tác phẩm tạo tâm thế làm quen, niềm hứng thú với thơ ca, xóa bỏ thành kiến về nghị luận thơ khó, để tự tin hơn với bài làm của mình. + Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy. Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể xác đáng. + Muốn làm được một bài nghị luận văn học hay cùng với kiến thức, năng lực cảm thụ, người viết cần có kĩ năng kết hợp đồng thời, linh hoạt nhiều phép lập luận: giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận để làm sáng tỏ vấn đề, trình bày một cách thuyết phục ý kiến, nhận định của mình. + Bài văn cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc, những luận cứ đúng đắn, sinh động và lập luận sắc bén. + Lời văn phải chuẩn xác, trong sáng, thể hiện rung cảm chân thành, tự nhiên. Như vậy, một bài văn nghị luận hay vừa đòi hỏi sự thâm nhập, thẩm bình sâu tác phẩm vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá riêng. 2.3. Các dạng đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. * Dạng đề 1: Đề 1: Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cha con trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương. Đề 2: Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn kết trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu: “Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.” (SGK Ngữ văn 9 tập I) Đề 3: Cảm nhận của em về bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. * Dạng đề 2: Đề 1: Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh” của Huy Cận. Đề 2: Phân tích cái hay của đoạn thơ sau: “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng . Mà sao nghe nhói ở trong tim !” (“Viếng lăng Bác” - Viễn Phương) 8 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  9. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ * Dạng đề 3: Đề 1: Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Đề 2: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Các dạng đề bài trên, mục đích của hoạt động này là giúp học sinh xác định đúng yêu cầu của đề, từ đó hiểu rõ những điều kiện cần có về tri thức, về kỹ năng . để thực hiện tốt yêu cầu ấy. 2.3.1. Đối với dạng đề 1: Đòi học sinh phải đọc kỹ đề và xác định những yêu cầu cơ bản là cảm nhận và suy nghĩ về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đọan thơ. HS phải có những cảm nhận đầy đủ về nội dung và nghệ thuật thông qua những từ ngữ, hình ảnh biện pháp tu từ trong đoạn thơ. Có thể chọn những hình ảnh mà mình cảm thấy đặc sắc nhất. Sau đó người viết bày tỏ được những suy nghĩ của bản thân về vấn đề nghị luận một cách chân thành nhất. 2.3.2. Đối với dạng đề 2: Khi làm bài cần xác định những yêu cầu cơ bản của đề bài thông qua những từ ngữ để xác định đúng yêu cầu đề bài. Đối với dạng đề này yêu cầu học sinh phải đọc kỹ để phát hiện được những từ ngữ, hình ảnh, tiểu biểu, các biện pháp tu từ (hay còn gọi là điểm sáng nghệ thuật). Để từ đó, cần khéo léo, linh hoạt kết hợp với những kiến thức đã được thu gom, tinh lọc ở trên lớp phân tích đánh giá, bình luận những từ ngữ, hình ảnh đó thì mới cảm nhận được cái hay cái đẹp của bài thơ, đoạn thơ. 2.3.3. Đối với dạng đề 3: Đây là những đề không có mệnh lệnh, người viết cần bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề đã được nêu ra trong đề bài. Dù sao để làm tốt bài văn nghị luận này, học sinh cần có các cảm nhận, suy nghĩ của riêng mình và diễn giải, chứng minh cảm nhận, ý kiến ấy một cách có căn cứ qua việc cảm thụ đúng và sâu sắc các từ ngữ, hình ảnh tác phẩm. 3. Phương pháp, kỹ năng làm văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. 3.1. Tìm hiểu đề, tìm ý: a. Tìm hiểu đề: Đây là bước đầu tiên và rất quan trọng nhưng từ xưa đến nay nhiều khi học sinh thường bỏ qua dẫn đến tình trạng làm lệch hướng, lạc thể loại của đề bài yêu cầu (lạc đề). Vậy, chúng ta phải làm thế nào? - Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý từ: suy nghĩ, phân tích, cảm nhận để thực hiện đúng phương pháp làm bài) - Tìm nội dung bàn luận? (Nội dung và nghệ thuật bài thơ, đoạn thơ? Hoặc nét đặc sắc về nghệ thuật trong bài thơ hay một khía cạnh nào đó của bài thơ, đoạn thơ) - Tìm phạm vi kiến thức để phục vụ cho vấn đề bàn luận mà đề yêu cầu? (tác phẩm nào? Của ai? Hoặc kiến thức thuộc lĩnh vực nào? Ví dụ: Đề bài: Phân tích cái hay, cái đẹp của đoạn thơ sau: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Mà sao nghe nhói ở trong tim” (“Viếng lăng Bác”-Viễn Phương) 9 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  10. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ * Đề bài trên thuộc thể loại nghị luận gì? - Nghị luận về một đoạn thơ. * Nội dung nghị luận là vấn đề gì? - Phân tích nội dung của đoạn thơ thông qua các từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tư từ. * Phạm vi kiến thức nằm ở tác phẩm nào? - Trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. b. Tìm ý: Tức là tìm những ý chính cần triển khai trong bài văn - Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải tìm hiểu nhà thơ, cuộc đời sự nghiệp, phong cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc biệt phải bám sát bố cục của bài để tìm luận điểm. - Một bài nghị luận tác phẩm văn học nói chung và nghị luận về đoạn thơ, bài thơ nói riêng cần phải xác định rõ ràng các ý có bản của đề bài qua đó giúp người viết trình bày theo từng ý sao cho hợp lý nhất. Sau khi đọc kĩ bài thơ, đoạn thơ, khám phá ra được cái hay, cái đẹp, cái đăc sắc trong từng yếu tố nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ, HS tự đặt ra và trả lời những câu hỏi để có những ý lớn, ý nhỏ . của bài văn . Dưới đây là các dạng câu hỏi gợi ý, giúp HS tìm ý : - Bước 1: Tìm hiểu về tác giả: Nêu vài nét về tác giả? (Tên, quê quán, sự nghiệp sáng tác ) - Bước 2: Hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xác định vị trí đoạn trích, nêu khái quát nội dung: Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào? Đoạn trích nằm ở vị trí nào của tác phẩm? Nêu khái quát nội dung bài thơ, đoạn thơ? - Bước 3: Tìm hiểu về nội dung những từ ngữ, hình ảnh : Xác định nội dung chính của đoạn thơ, bài thơ là gì? Trong đoạn thơ, bài thơ có những từ ngữ, hình ảnh nào đặc sắc? Hình ảnh, từ ngữ nào toát nên vẻ đẹp của đoạn thơ, bài thơ? - Bước 4: Tìm hiểu về nghệ thuật: Em có nhận xét gì về nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ? - Bước 5: Khẳng định sự thành công của đoạn thơ, bài thơ: Tác phẩm đem lại cho chúng ta điều gì? Dưới đây là các dạng câu hỏi gợi ý, giúp HS tìm ý một đề cụ thể: b.1. Những câu hỏi về tác giả, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác? * Tác giả của đoạn thơ, bài thơ sẽ nghị luận là ai? Có những nét gì nổi bật trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác? Sống trong thời kì nào? Có nét riêng, nét độc đáo gì về phong cách cá nhân? (Chuyên sáng tác về mảng đề tài nào? Sự nghiệp sáng 10 of 20 11/5/2024, 8:49 AM
  11. Rèn kỹ năng làm bài văn Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ tác ra sao?) VD: Viễn Phương quê ở An Giang là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Thơ viễn Phương mang giọng điệu thiết tha, giàu tình cảm . * Bài thơ, đoạn trên được trích từ đâu? Được sáng tác trong hoàn cảnh nào? Tác phẩm được đánh giá như thế nào? Có phải là tác phẩm tiêu biểu cho sự sáng tác văn chương của tác giả không? VD: Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, khi đất nước vừa được thống nhất và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành. Hai khổ thơ trên nằm ở vị trí đầu bài thơ diễn tả cảm xúc chân thành thiết tha nhất khi tác giả đứng trước không gian và cảnh vật bên ngoài lăng Bác b.2. Câu hỏi tìm giá trị nội dung: * Ý nghĩa cụ thể, ý nghĩa khái quát của từng đoạn thơ là gì? Những ý nào tập trung biểu hiện chủ đề, tư tưởng của bài thơ, đoạn thơ? Nội dung đó được thể hiện được những hình ảnh và ngôn ngữ tiêu biểu nào? Có giá trị nhân văn như thế nào? VD: - Cảm xúc và sự tôn kính trang nghiêm của tác giả khi đứng trước lăng Bác: + Hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi: “ mặt trời” => để ca ngợi sự vĩ đại của Bác Hồ (như mặt trời) vừa thể hiện sự tôn kính của nhà thơ và nhân dân với Bác. + Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ với bao xúc động bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn và nặng trĩu nỗi nhớ thương + “Dâng bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng - Diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào trong lăng Bác: + Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian và không gian ở bên trong lăng Bác đã được nhà thơ gợi tả bằng hình ảnh thơ giản dị: “ Bác nằm trong trăng sáng dịu hiền”. => Câu thơ diễn tả chính xác và tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo . Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. => Đó là giấc ngủ vĩnh hằng của con người cống hiến => Gam màu khổ thơ ba không rực rỡ chói lọi như khổ hai mà trở nên dịu dàng, mềm mại gợi nên hình ảnh Người gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng . gợi tả tâm hồn cao đẹp sáng trong của Người + Cảm xúc ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi đau xót không thể kìm nén: “Vẫn biết trời . trong tim” => Trời xanh, mặt trời, vầng trăng là hình ảnh vũ trụ kì vĩ, vĩnh hằng ẩn dụ gợi suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt và trường tồn của Bác . Người đã hoá thân vào thiên nhiên đất nước, dân tộc Việt Nam. => Dù tin như vậy, trái tim nhà thơ vẫn nhói đau. Đó là nỗi đau vô hạn, rất thật, nỗi đau tinh thần được cụ thể hoá thành nỗi đâu vật chất . b.3. Câu hỏi tìm giá trị nghệ thuật: 11 of 20 11/5/2024, 8:49 AM