Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho học sinh ở THCS
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho học sinh ở THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_tao_hung_thu_hoc_tap_mon_hoa_hoc_cho_h.pdf
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho học sinh ở THCS
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN VỤ BẢN TRƯỜNG THCS XÃ LIÊN BẢO BÁO CÁO SÁNG KIẾN TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC CHO HỌC SINH Ở THCS Mã lĩnh vực: 05 Tác giả: Vũ Thị Thanh Nụ Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Hóa Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường THCS xã Liên Bảo
- VụBản,ngày 10 tháng 4 năm2022 1. Tên sáng kiến: “Tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho học sinh ở THCS” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Hóa học cấp THCS. Mã lĩnh vực: 05 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 4 năm 2022 4. Tác giả: Họ và tên: Vũ Thị Thanh Nụ
- Năm sinh: 1990 Nơi thường trú: Liên Bảo – Vụ Bản – Nam Định Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Hóa Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: THCS xã Liên Bảo Điện thoại: 0979451534 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100 % 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS xã Liên Bảo Địa chỉ: Liên Bảo – Vụ Bản – Nam Định Điện thoại: 02283820542 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Môn Hóa học ở trường THCS là một môn học có nhiều khái niệm trừu tượng, kiến thức nặng tính hàn lâm do đó học sinh tiếp thu kiến thức khá là khó khăn.Vì vậy nếu không có những bài giảng và phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học trò thì rất dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức
- từ đó sinh ra chán nản, sợ hãi môn học này. Trước tình hình đó, giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Đây là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả giờ dạy. Có những vấn đề khoa học mà môn Hóa học giúp học sinh giải thích được những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất đơn giản mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Trong việc dạy môn Hoá học ở trường THCS, người giáo viên phải có vốn kiến thức về thực tế sâu rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê học tập, tìm tòi khám phá của học sinh. Bên cạnh đó qua mỗi bài học, giáo viên cần nhấn mạnh các kiến thức trọng tâm đồng thời hướng dẫn học sinh đơn giản hóa kiến thức để học sinh có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp. Từ đó tất cả học sinh kể cả học sinh trung bình và kém đều thấy được việc học môn Hóa không hề khó mà lại rất dễ. Như thế sẽ không còn những giờ học căng thẳng, giáo viên không phải vất vả quản lí lớp vì sự thiếu tập trung của trò nữa. Chính vì vậy, tôi thực sự tâm đắc với các phương pháp: “Tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho học sinh ở THCS”. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ KHOA HỌC: 1. Hóa học với thực tiễn cuộc sống: a) Tác động của hóa học đến đời sống con người: Hóa học là môn khoa học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống: - Trong tự nhiên, nhờ có hóa học mà chúng ta có thể khám phá thiên nhiên, nắm được tính chất, quy luật của thiên nhiên và con người ngày càng thành công trong ngành khoa học khám phá vũ trụ, trái đất,
- - Trong đời sống, sản xuất: Hóa học được ứng dụng trong việc nghiên cứu thành phần, tác dụng, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, các quy trình sản xuất (sản xuất, chế biến các nguồn nguyên liệu thô thành các nguyên liệu có thể sử dụng trong đời sống sản xuất, chế biến các loại nông sản, chế tạo ra các đồ dùng, vật dụng hằng ngày). b) Tác dụng của các kiến thức thực tế về hóa học: - Giúp học sinh nắm được cơ sở hóa học, nắm vững và củng cố kiến thức cơ bản về hóa học. - Nắm nhanh và kĩ các kiến thức đã học trong bài. Hóa học là ngành hóa học thực nghiệm, học lý thuyết và kiểm tra lại bằng các thí nghiệm. Chính việc tiến hành các thí nghiệm sẽ phát sinh các vấn đề để các em có thể hiểu sâu và kĩ các kiến thức đã học, qua đó các em hiểu bài hơn. - Các kiến thức hóa học thực tế làm cho học sinh hiểu được vai trò to lớn của hóa học trong đời sống : kinh tế, quốc phòng, sinh hoạt, thúc đẩy sự ham hỏi của học sinh. - Giúp học sinh hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng trong đời sống hằng ngày một cách đúng đắn. Các em sẽ nhận thức được những gì có ích, những gì có hại để điều chỉnh hành vi của mình. 2. Ý nghĩa của việc liên hệ thực tế trong giảng dạy môn Hóa ở THCS: a) Với giáo viên: - Phát huy vốn kiến thức của người thầy. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế trong bài giảng sẽ nâng cao hiệu quả giảng dạy. - Mở rộng kiến thức hóa học thực tế rèn luyện một số kỹ năng dạy học: + Kỹ năng diễn đạt. + Kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học. + Kỹ năng tiến hành thí nghiệm. + Kỹ năng phân bố thời gian. + Kỹ năng giao tiếp
- - Tạo ra giờ học lý thú bổ ích. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế sẽ có rất nhiều câu hỏi đặt ra kích thích học sinh tư duy trả lời, bầu không khí của lớp sẽ trở nên sôi động, tạo điều kiện cho các học sinh còn nhút nhát tham gia vào bài giảng. - Gần gũi với học sinh. Khi giáo viên thực hành các kỹ năng nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên sẽ có nhiều cơ hội giao tiếp với học sinh. Nhờ đó mà sẽ tạo được ấn tượng tốt với học sinh b) Với học sinh: - Kích thích lòng ham thích học tập của học sinh. - Các em trở nên yêu thích môn hóa. Khi học sinh được hiểu thấu đáo các vấn đề hóa học, được tham gia vào các hoạt động thực tế Các em sẽ có hứng thú với môn học vì các em đã nắm được tầm quan trọng của môn học, từ đó nâng cao thành tích học tập. - Nắm được các kiến thức cơ bản của hóa học. Các kiến thức hóa học thực tế lấy nền tảng là các kiến thức hóa học mà học sinh đã học ở nhà trường, tác dụng của các kiến thức này là giải thích các bản chất của sự vật, hiện tượng do đó các em sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc các kiến thức hóa học, các em sẽ nắm rõ các kiến thức hơn. - Hình thành kỹ năng tư duy, sử dụng sách Các kiến thức mới luôn thúc đẩy học sinh tìm tòi phát hiện kiến thức trong sách báo. - Phát huy tính tích cực sáng tạo trong học tập. 3. Liên hệ thực tế là một biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh: - Cái mới luôn là cái kích thích chúng ta tìm hiểu nhất. Việc liên hệ thực tế sẽ thúc đẩy học sinh tìm tòi khám phá trong học tập. Hiểu và giải thích được các hiện tượng tự nhiên là một động cơ thúc đẩy học sinh học tập. Các kiến thức hóa học sẽ thu hút sự chú ý lắng nghe trong giờ học và ham thích học hỏi, tìm kiếm sách vở, rèn luyện khả năng sử dụng sách Qua đó, các em sẽ thấy được những lý thú của các kiến thức đã học, tăng thêm lòng yêu thích môn học.
- - Hứng thú học tập là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập của học sinh. Học sinh có khả năng mà không có hứng thú thì cũng không đạt kết quả, giáo viên giỏi chuyên môn mà không có kỹ năng tạo hứng thú học tập cho học sinh thì chưa thành công. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ kiến thức và tất cả các yếu tố phục vụ cho công việc dạy học. Kỹ năng tạo hứng thú là kỹ năng quan trọng nhất, mà để có được kỹ năng này thì đầu tiên người giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng, phải luôn cung cấp cho học sinh lượng kiến thức: đủ, đúng, mới, thiết thực. II. Thực trạng công tác dạy và học môn Hóa học tại trường THCS xã Liên Bảo. 1. Ưu điểm: a. Đối với giáo viên: Ở trường THCS xã Liên Bảo trong những năm học vừa qua, đội ngũ giáo viên đã có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như: sử dụng đồ dùng trực quan, phương pháp thực hành thí nghiệm, thí nghiệm mô tả, dạy học giải quyết vấn đề Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về từng nội dung kiến thức. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin b. Đối với học sinh: Đa số học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà, tham gia tích cực trong việc tổ chức các hoạt động học tập của giáo viên và đã đạt hiệu quả trong quá trình lĩnh hội kiến thức. 2. Hạn chế : a. Đối với giáo viên:
- - Chưa thực sự quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật tâm lý, chưa động viên khéo léo kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù nhỏ. - Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng thực hành Hóa học. - Không nắm chắc đối tượng dẫn tới đề quá cao hoặc quá thấp đối với học sinh. - Chưa tạo được không khí học tập thân thiện. Giáo viên chưa phối kết hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh. - Việc kiểm tra, đánh giá chưa có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập. - Chưa tổ chức được các buổi ngoại khóa, những hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh tham gia. - Đôi khi giáo viên chưa thực sự đầu tư cho giờ dạy (chuẩn bị giáo án chưa chu đáo, phương tiện trợ giảng chưa đầy đủ, chưa sử dụng các phương pháp, kĩ thuật tích cực hoặc đã bước đầu sử dụng nhưng chưa phù hợp ) nên bài dạy chưa sinh động, sôi nổi; chưa tạo hứng thú cho học sinh, chưa lôi cuốn các em vào tiết học. - Giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh, tạo điều kiện cho các học sinh chiếm lĩnh kiến thức, để học sinh được tham gia vào các hoạt động mà vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó, nhiều học sinh chưa chủ động chiếm lĩnh kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, thụ động, không hiểu bản chất. b. Đối với học sinh: - Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác, môn Hóa học có nhiều khái niệm trừu tượng, kiến thức nặng tính hàn lâm do đó học sinh tiếp thu kiến thức khá là khó khăn. - Một bộ phận học sinh học yếu môn toán, lý khó có khả năng tiếp thu kiến thức môn Hóa học do đó sợ môn Hóa và không ham thích học Hóa. Dẫn đến có những giờ học thật sự rất căng thẳng, học sinh do không thích học môn Hóa nên
- không tập trung, nói chuyện và làm việc riêng trong giờ, phá bĩnh những học sinh khác. Những học sinh này làm lan tỏa tinh thần lười học cho những học sinh khác. Nên giáo viên rất vất vả trong việc dạy học cũng như quản lí học sinh trong lớp. - Một số em lười học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ học tập dẫn tới không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc học và vận dụng vào việc giải quyết các dạng bài tập Hóa học. - Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, không có sự phấn đấu vươn lên, có thói quen chờ đợi lười suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn bè hoặc xem lời giải sẵn trong sách giải một cách thụ động. Vì vậy học sinh chưa hình thành và phát huy được những năng lực và phẩm chất cần đạt. III. Nội dung, giải pháp: Trong quá trình giảng dạy bộ môn Hóa học cho học sinh ở trường THCS xã Liên Bảo tôi đã áp dụng thường xuyên các phương pháp “Tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho học sinh ở THCS” thì thấy rằng các vấn đề còn tồn tại ở trên đã được giải quyết rất nhiều và thu lại được kết quả tích cực. Sau đây tôi xin trình bày cụ thể về phương pháp này: 1. Giải pháp 1: Đơn giản hóa kiến thức giúp học sinh ghi nhớ bài học ngay trên lớp và cảm thấy hóa học không hề khó từ đó khơi dậy niềm yêu thích môn học cho học sinh. Ví dụ 1: Khi dạy về bài “Đơn chất - Hợp chất và phân tử” (Hóa 8) để giúp học sinh phân biệt được 2 loại đơn chất: đơn chất kim loại (được tạo nên từ nguyên tố kim loại) và đơn chất phi kim (được tạo nên từ nguyên tố kim loại), giáo viên đã tổng kết các nguyên tố kim loại và nguyên tố phi kim thường gặp bằng một câu vừa dí dỏm, vừa dễ học như sau: - Dãy 11 nguyên tố phi kim thường gặp: Cl, Si, C, H, O, N, S, P, F, Br, I. (Cô Sinh Chọn Sư Phạm Fải Bỏ Yêu) - Dãy 16 nguyên tố kim loại thường gặp (dãy hoạt động hóa học của kim loại): K, Ba, Ca, Na, Mg, Al, Zn, Fe, Ni, Sn, Pb, (H), Cu, Hg, Ag, Pt, Au.
- (Khi Bạn Cần Nàng May Áo Záp Sắt Nhìn Sang Phố Hỏi Cửa Hàng Á Phi Âu) - Đối với học sinh trung bình và kém thì chỉ yêu cầu học thuộc 11 nguyên tố phi kim thường gặp còn lại là các nguyên tố kim loại. Ví dụ 2: Sau khi học bài “Oxit” (Hóa 8) để giúp học sinh phân biệt được 2 loại oxit là oxit axit và oxit bazơ, giáo viên tổng kết như sau: - Oxit axit: Phi kim + oxi (Trừ Mn2O7) - Oxit bazơ: Kim loại + oxi =>Ta đọc “ba kim”: tức là ba là bazơ, kim là kim loại => oxit bazơ tạo bởi kim loại và oxi. Ví dụ 3: Sau khi học về dạng bài tập nhận biết các dung dịch axit, bazơ bằng quỳ tím học sinh rất hay bị nhầm lẫn giữa axit làm quỳ tím hóa đỏ và bazơ làm quỳ tím hóa xanh. Học sinh hay nhầm lẫn axit làm quỳ tím hóa xanh, bazơ làm quỳ tím hóa đỏ, để giúp học sinh khắc sâu kiến thức và không bị nhầm lẫn, giáo viên tổng kết như sau: - Axit làm quỳ tím hóa đỏ => ta đọc A đỏ tức là A là axit,axit làm quỳ tím hóa đỏ. - Bazơ làm quỳ tím hóa xanh => ta đọc B xanh tức là B là bazơ, bazơ làm quỳ tím hóa xanh Ví dụ 4: Sau khi học xong bài “Công thức hóa học” (Hóa 8) để giúp học sinh biết vận dụng quy tắc hóa trị để tìm nhanh hóa trị của nguyên tố (nhóm nguyên tử) hoặc lập nhanh công thức hóa học của các hợp chất, giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng quy tắc chéo lên khi tìm hóa trị và quy tắc chéo xuống khi lập công thức hóa học a b - Biểu thức : Ax B y (a là hóa trị của A, b là hóa trị của B; x, y là chỉ số (số nguyên tử của A, B)) Quytắchóatrị:x×a=y×b (B có thể là nhóm nguyên tử) - Tính hóa trị chưa biết: biết x,y và a ( hoặc b) tính được b (hoặc a): + Cùng chỉ số thì cùng hóa trị
- + Quy tắc chéo lên: lấy chỉ số của nguyên tử (nhóm nguyên tử) này làm hóa trị của nguyên tố (nhóm nguyên tử) kia: x=b, y=a. Ví dụ: Hãy tìm hóa trị của các nguyên tố, nhóm nguyên tử trong các hợp chất sau: a) Hóa trị của nguyên tố N trong hợp chất N2O5=> Sử dụng quy tắc chéo lên ta có hóatrịcủaN làV b) Hóa trị của nhóm SO4 trong hợp chất Na2SO4 biết Na (I) => Sử dụng quy tắc chéo lên ta có hóa trị của nhóm SO4 là II c) Hóa trị của Ca trong hợp chất CaO biết O (II) => Sử dụng quy tắc cùng chỉ số thì cùng hóa trị ta có hóa trị của Ca là II. - Lập công thức hóa học của hợp chất khi biết hóa trị: biết a và b, x hoặc y tính y (hoặc x): + Cùng hóa trị thì cùng chỉ số + Quy tắc chéo xuống: lấy hóa trị của nguyên tố (nhóm nguyên tử) này làm chỉ số của nguyên tử (nhóm nguyên tử) kia. Ví dụ: Hãy lập nhanh công thức hóa học của các hợp chất sau: a)Na(I) và O(II) => Sử dụng quy tắc chéo xuống ta có công thức hóa học: Na2O. b) K(I) và OH(I) => Sử dụng cùng hóa trị thì cùng chỉ số =1, ta có công thức hóa học: KOH. c)Ca(II) và PO4(III) => Sử dụng quy tắc chéo xuống ta có công thức hóa học: Ca3(PO4)2 d) Cu(II) và O(II) => Sử dụng cùng hóa trị thì cùng chỉ số =1, ta có công thức hóa học: CuO. Ví dụ 5: Để giúp học sinh lớp 8 ghi nhớ nguyên tử khối của các nguyên tử và vận dụng tính toán thật nhanh, giáo viên yêu cầu học sinh học thuộc bài ca nguyên tử khối. - Cách học: chia từng khổ, mỗi khổ 4 câu, học thuộc hết khổ này mới chuyển sang khổ khác để học. BÀI CA NGUYÊN TỬ KHỐI Hidro là một(1)
- Mười hai (12) cột cacbon(C) Nitơ mười bốn (14) tròn Oxi (O) trăng mười sáu(16) Natri (Na) hay láu táu Nhảy tót lên hai ba (23) Làm Magie (Mg) gần nhà Ngậm ngùi nhận hai bốn (24) Hai bảy (27) Nhôm (Al) la lớn Lưu huỳnh (S) giành ba hai (32) Khác người thật là tài Clo (Cl) ba lăm rưỡi (35,5) Kali (K) thích ba chín (39) Canxi (Ca) tiếp bốn mươi (40) Năm lăm (55) Mangan (Mn) cười Sắt (Fe) - đây rồi: năm sáu (56) Sáu tư (64) Đồng (Cu) nổi cáu Bởi kém Kẽm (Zn) sáu lăm (65) Tám mươi (80) Brom (Br) nằm Xa bạc (Ag) một linh tám (108) Bari (Ba) buồn chán ngán Một ba bảy (137) ích chi Kém người ta còn gì! Thủy ngân (Hg) hai linh mốt (201)
- Ví dụ 6: Để giúp học sinh lớp 9 ghi nhớ thật nhanh hóa trị của các nguyên tố kim loại giáo viên tổng kết: - Hóa trị I: Li, Na, K Ag. Đọc là: Li Na Ka Bạc - Hóa trị II: Ba, Ca, Mg, Zn. Đọc là: Ba Ca Ma Kẽm - Hóa trị III: Al - Kim loại nhiều hóa trị: Fe (II, III), Cu (I, II) Ví dụ 7: Khi học về bài “Sơ lược về bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học” (Hóa 9) để giúp học sinh ghi nhớ nhanh các nguyên tố ở nhóm I, nhóm II, giáo viên tổng kết: - Nhóm I (các kim loại kiềm): Li, Na, K, Rb, Cs, Fr. Ta đọc thành: Lính Nào Không Rửa Chén Phạt. - Nhóm II (các kim loại kiềm thổ):Be, Mg, Ca, Sr, Ba, Ra. Ta đọc thành: Bé Mang Cá Sang Bà Rán. Ví dụ 8: Khi học về bài “Sơ lược về bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học” (Hóa 9) để giúp học sinh khắc sâu kiến thức về bảng tuần hoàn: phân biệt chu kì với nhóm và sự biến đổi tính kim loại và phi kim của các nguyên tố trong cùng 1 chu kì và 1 nhóm giáo viên tổng kết: Chu kì (tính kim loại giảm dần, tính phi kim tăng dần) STT của chukì = số lớp e Nhóm (tính kim loại tăng dần, tính phi kim giảm dần) STT của nhóm = số e lớp ngoài cùng Ví dụ 9: Khi học xong bài “Tính chất hóa học của oxit” (Hóa 9) để giúp học sinh phân biệt được tính chất hóa học của 2 loại oxit, giáo viên yêu cầu học sinh lập bảng so sánh tính chất hóa học của oxit axit và oxit bazơ như sau: Tính chất hóa học của oxit axit Tính chất hóa học của oxit bazơ 1. Oxit axit tác dụng với nước tạo 1. 4 oxit bazơ (K2O, BaO, CaO, Na2O thành dung dịch axit. –Khi Bạn Cần Nàng) tác dụng với
- nước tạo thành dung dịch bazơ. 2. Tác dụng với dung dịch bazơ tạo 2. Tác dụng với dung dịch axit tạo thành muối và nước thành muối và nước 3. oxit axit tác dụng với 4 oxit bazơ 3. 4 oxit bazơ (K2O, BaO, CaO, Na2O (K2O, BaO, CaO, Na2O –Khi Bạn –Khi Bạn Cần Nàng) tác dụng với Cần Nàng) tạo thành muối. oxit axit tạo thành muối. Ví dụ 10: Khi dạy bài “Axit axetic” (Hóa 9) để học sinh có thể nêu và ghi nhớ tính chất vật lí của axit axetic, giáo viên giới thiệu: giấm ăn là axit axetic có nồng độ 2- 5%, khi chế biến thực phẩm các em đã biết đến giấm ăn, dựa vào các tính chất vật lí của giấm ăn em hãy nêu các tính chất vật lí của axit axetic (về trạng thái, màu sắc, mùi vị, tính tan trong nước)? 2. Giải pháp 2: Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng cách liên hệ thực tế. a) Liên hệ thực tế khi nêu vấn đề trước khi vào bài mới. Cách nêu vấn đề này tạo sự chú ý quan tâm, khích thích tính tò mò của học sinh. Ví dụ 1: Khi học về bài “rượu etylic” (hóa 9), giáo viên đặt vấn đề: rượu etylic còn được gọi là cồn, hiện nay dịch Covid đang bùng phát rất mạnh, một trong những biện pháp nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh là sát khuẩn tay thường xuyên. Vậy các em có biết giữa cồn 700 và cồn 900 thì loại cồn nào dùng để sát khuẩn nhanh? Chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay. - Câu trả lời: Trong thực tế, người ta thường dùng cồn 700 để sát khuẩn chứ không dùng cồn 900 độ là do cồn 900 làm đông vón protein vùng vỏ của virus, vi khuẩn quá nhanh nên không thấm vào bên trong được. Ngoài ra, cồn 90 độ bay hơi quá nhanh nên thời gian không đủ để có tác dụng. Thêm nữa là cồn 90 độ rất dễ gây cháy nên sẽ nguy hiểm hơn là dùng cồn 70 độ. Vậy nên khuyến cáo nên dùng cồn 70 độ, không nên dùng cồn 90 độ để sát khuẩn nhanh. Cũng cần phải nói thêm, việc sát khuẩn nhanh chỉ là biện pháp hỗ trợ trong việc giảm lây nhiễm virus. Tốt nhất vẫn là rửa tay bằng xà phòng kết hợp thực hiện nghiêm túc khuyến cáo 5K của bộ y tế. Ví dụ 2 : Khi dạy về bài “Clo” (Hóa 9), giáo viên có thể mở bài như sau:
- - GV : Mỗi khi mở vòi nước máy chúng ta thường ngửi thấy có mùi xốc rất khó chịu. Đó là vì tại nhà máy nước người ta đã sục vào đó một chất khí có tác dụng diệt khuẩn. Các em có biết khí đó là khí gì không ? - HS có thể biết sẽ trả lời đó là khí clo. - GV : Đây cũng là tên bài học của chúng ta hôm nay. * Cách giới thiệu này sẽ tạo cho học sinh chú ý hơn để tìm hiểu tại sao clo lại có tính chất như vậy. Và trong quá trình học về tính chất của khí Clo các em sẽ giải thích được như sau : Khi sục vào nước một lượng nhỏ clo, nước có tác dụng sát trùng do clo tan một phần (gây mùi) và một phần với nước: H2O + Cl2 HCl + HClO Hợp chất HClO không bền có tính oxi hóa mạnh có khả năng tẩy trắng: HClO HCl + O Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn. Ví dụ 3 : Khi học về bài “Một số muối quan trọng” (hóa 9), giáo viên có thể mở bài như sau : - GV : Hằng ngày, các em thường ăn muối gì ? - HS : Đó là muối iot ? - GV : Tại sao phải ăn muối có iot ? - HS : Để trị bệnh bướu cổ. - GV : Ăn muối iot để bổ sung hàm lượng iot cho cơ thể, trong cơ thể một người trưởng thành có chứa 20 - 50mg iot chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu iot trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh : Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần độn, phụ nữ thiếu iot dẫn đến vô sinh, có biến chứng sau khi sanh. Mỗi ngày phải đảm bảo cho cơ thể hấp thụ với < 150 microgam iot. Muối iot được sản xuất từ muối ăn. Vậy để biết muối ăn được khai thác như thể nào và ứng dụng ra sao chúng ta tìm hiểu bài học hôm nay. Ví dụ 4 : Khi dạy về bài “Tính chất của oxi” (Hóa 8), giáo viên có thể liên hệ thực tế khi mở bài như sau :
- - GV : Trong “Văn tế thập loại chúng sinh”, thi hào Nguyễn Du đã viết : “Lập lòe ngọn lửa ma trơi Tiếng oan văng vẵng tối trời còn thương” Vậy “ma trơi” là cái gì vậy? Các nhà văn tưởng tượng ra chăng? Không phải, “ma trơi” quả là có thật. Nếu các em có dịp đi qua các nghĩa trang vào ban đêm thì các em sẽ thấy tại một số ngôi mộ tỏa ra những ngọn lửa màu xanh lập lòe mà dân gian thường gọi là “ma trơi”. Bài học ngày hôm nay sẽ giúp các em hiểu được hiện tượng này. * Sau khi học xong tính chất oxi tác dụng với Photpho giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu được hiện tượng trên là do: Trong cơ thể (xương động vật) có chứa một hàm lượng photpho khi chết phân hủy tạo một phần thành khí PH3 (photphin), khi có lẫn một chút khí P2H4 (diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối khí (lửa “ma trơi”) bay trong không khí. Bất kể ngày hay đêm đều có PH3 bay ra ở các nghĩa trang, chỉ có điều là ban ngày ánh sáng mặt trời quá mạnh nên ta không thấy được ma trơi. 2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O Điều trùng lặp ngẫu nhiên là : Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa càng tăng thêm sự mê tính dị đoan. Ví dụ 5 : Khi học bài “Sự biến đổi chất” (hóa 8), giáo viên có thể mở bài như sau : - GV : Sau mỗi trận mưa, các em cảm thấy bầu trời, không khí như thế nào? - HS : Bầu trời quang đãng hơn, không khí mát mẻ hơn. - GV : Thật vậy, sau cơn mưa to sấm nổ đùng đùng, khi mưa tạnh, nắng lên, mọi người thường cảm thấy như căn phòng, đường xá, khu phố thậm chí cả bầu trời xanh kia mát mẻ trong lành hẳn lên. Hít thở cũng thật dễ chịu. Đó là nguyên nhân gì nhỉ ? * Học xong về sự biến đổi chất, học sinh sẽ hiểu được hiện tượng trên là do: Khi có những tia chớp điện thì một phần oxi trong không khí sẽ biến thành ozon: 3O2 → 2O3
- Ozon khi rất loãng không có mùi hôi, ngược lại còn cho con người ta có cảm giác tươi mát, thanh sạch dễ chịu. Nó còn có tác dụng sát trùng, làm sạch không khí, rất có lợi cho cơ thể con người. b) Liên hệ thực tế qua các phản ứng hóa học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh. Ví dụ 1: Khi dạy bài “Axetilen” (Hóa 9), sau khi học xong phần điều chế axetilen, giáo viên có thề liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết ? Trong nông nghiệp, đất đèn dùng để làm gì ? - HS : Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua, khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit. CaC2 + 2H2O C2H2 + Ca(OH)2 Các chất này làm tổn thương đến các hoạt động hô hấp của cá, vì vậy có thể làm cá chết. Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để ủ chuối, cà chua Ví dụ 2: Khi dạy về bài “Silic. Công nghiệp silicat” (hóa 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: Tại sao không đựng dung dịch HF trong bình thủy tinh . - HS: Dung dịch HF, tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn thủy tinh. Do thành phần của thủy tinh chính là SiO2, khi cho dung dịch HF vào thì có phản ứng : SiO2 + 4HF → SiF4 + 2H2O Ví dụ 3: Khi dạy về bài “Tính chất hóa học của kim loại” (Hóa 9), sau khi học xong tính chất hóa học của kim loại tác dụng với phi kim, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét mà nên rắc bột S lên trên ?
- - HS: Thủy ngân là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một chất độc. Vì vậy, khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi làm cho quá trình thu gom khó khăn. Ta phải rắc bột S lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi. Hg + S HgS↓ Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn. Ví dụ 4: Khi dạy bài “Axit cacbonic và muối cacbonat” (Hóa 9), sau khi học xong tính chất của muối cacbonat NaHCO3, giáo viên có thể liên hệ như sau : - GV: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày ? - HS: Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng : NaHCO3 + HCl NaCl + CO2 + H2O Ví dụ 5: Khi dạy về bài “Protein” (hóa 9), sau khi học xong phần tính chất của protein, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau - GV : Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên ? Khi nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại ? - HS : Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protein bằng nhiệt, gọi là sự đông tụ. Một số protein tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị kết tủa. Ví dụ 6 : Khi dạy về bài “Một số bazơ quan trọng” (hóa 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV : Vì sao khi bôi vôi tôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ? (Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh thông tin : trong nọc ong, kiến, nhện có axit fomic HCOOH) - HS : Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit (HCOOH). Vôi tôi Ca(OH)2 là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau. 2HCOOH + Ca(OH)2 (HCOO)2Ca + 2H2O - GV: Nếu không có vôi tôi ta có thể thay thế bằng hóa chất nào? Vì sao?
- - HS: Ta dùng kem đánh răng hoặc nước xà phòng vì trong chúng cũng có bazơ. c) Liên hệ thực tế sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng đã gặp trong thực tế cuộc sống. Ví dụ 1: Sau khi học xong bài “Phân bón hóa học” (hóa 9). Để tạo cho học sinh ở khu vực làm nông nghiệp có thể kiểm nghiệm trong đời sống, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: “ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” Câu ca dao mang hàm ý khoa học hóa học như thế nào ? - HS: Câu ca dao nhắc nhở người làm nông: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. - GV: Em hãy giải thích câu ca dao trên ? - HS: Do trong không khí có khoảng 78% khí N2 và 21% khí O2, ở điều kiện thường nitơ rất trơ về mặt hóa học, khi có sấm chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động : 30000 C N2 + O2 2NO Sauđó: 2NO+O2 2NO2 Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa: 4NO2 + O2 + 2H2O 4HNO3 Cung cấp nitơ cho cây lúa dưới dạng NO3 - GV: Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 – 7kg Nitơ cho mỗi mẫu đất. Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón cho cây trồng. Ví dụ 2 : Sau khi học xong bài “Tính chất hóa học của kim loại” (Hóa 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: Tại sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà.
- - HS: Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 9,1g/cm3). Do đó, nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng. Ví dụ 3 : Khi dạy bài “Tinh bột và xenlulozơ” (hóa 9), sau khi học xong quá trình tạo thành tinh bột trong cây xanh giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau: - GV : Vì sao ban đêm không để nhiều cây xanh trong nhà? - HS : Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang hợp, hấp thụ CO2 trong không khí và giải phóng khí oxi: as 6nCO2 + 5nH2O clorophin (C6H10O5)n + 6nO2 ↑ Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2, làm cho phòng thiếu khí O2 và có nhiều khí CO2. Ví dụ 4: Sau khi học xong bài “Axit cacbonic và muối cacbonat” (hóa 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: Tục ngữ Việt Nam có câu : “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào ? - HS: Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3. Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng : CaCO3 + CO2 + H2O Ca(HCO3)2 Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần. Ví dụ 5: Sau khi học xong bài “Các oxit của cacbon” (hóa 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4 ) và không có khí oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt ?
- - HS: Khi xuống giếng phải đeo bình oxi. Còn muốn biết có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4 ) và không có khí oxi chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt thả xuống nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc. - GV: Trong các giếng đào đặc biệt nhiều vùng đồng bằng thường có khí độc CO, CH4 và không có khí O2. Mà người dân chúng ta có thói quen xuống giếng. Đã có nhiều trường hợp tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp khí độc (CO) gây đông máu, CH4 và không có oxi gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng chết. Ví dụ 7: Sau khi học xong bài “Một số muối quan trọng” (hóa 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn NaCl ? - HS: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 1000C, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi là > 1000C. Do nhiệt độ sôi của muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy, khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn. Ví dụ 8: Sau khi học xong bài “Cacbon” (Hóa 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : - GV: Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi ? - HS: Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm cho cơm đỡ mùi khê. d) Sau khi đã học bài giáo viên hướng dẫn học sinh tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng kiến thức hóa học vào đời sống và giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan đến hóa học. Ví dụ 1 : Sau khi học xong bài “Tinh bột và xenlulozơ” (Hóa 9), giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm “Hồ tinh bột tác dụng iot” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm kiểm chứng ở nhà. * Cách làm : Lấy một ít cồn iot (mua ở nhà thuốc tây) bôi lên quả chuối xanh và quả chuối chín.