SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lĩnh hội đặc điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1954

doc 92 trang Đan Tâm 01/02/2025 770
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lĩnh hội đặc điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1954", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_linh_hoi_dac_diem_cua_su.doc

Nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lĩnh hội đặc điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1954

  1. PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO MỸ LỘC TRƯỜNG THCS MỸ THỊNH   BÁO CÁO SÁNG KIẾN “Một số biện pháp giúp học sinh lĩnh hội đặc điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1954” Tác giả : Trần Thị Hạnh Trình độ chuyên môn : Đại học Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác : Trường THCS Mỹ Thịnh Mỹ Thịnh, tháng 11 năm 2016 1
  2. I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: Trong mục tiêu chiến lược về giáo dục của Đảng và nhà nước ta đã xác định: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, cũng như các môn học khác, dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải thực hiện 3 nhiệm vụ có quan hệ gắn bó với nhau: kiến thức, thái độ và phát triển kĩ năng, trong đó nhiệm vụ kiến thức là cung cấp cho người học những kiến thức khoa học, chính xác, để từ đó người học biết, hiểu và vận dụng kiến thức. Để đạt được mục đích nêu trên, thì việc tổ chức học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện lịch sử là rất quan trọng. Xuất phát từ thực tế môn lịch sử chưa được yêu thích trong các nhà trường. Bộ môn Lịch sử đang bị học sinh quay lưng lại, minh chứng cho điều đó chúng ta thấy rõ gần đây trong kỳ thi tốt nghiệp THPT có rất ít học sinh đăng ký dự thi môn Lịch sử, thậm chí có hội đồng thi chỉ có 1 đến 2 em học sinh đăng ký dự thi môn Lịch sử. Hoặc nếu có thi môn Lịch sử thì hầu như học sinh không làm bài được, có khi để giấy trắng. Hiện nay, vị trí, vai trò của môn Lịch sử chưa được quan tâm đúng mức, chưa giữ vai trò quan trọng, thậm chí Bộ giáo dục và đào tạo còn định cắt bỏ môn Lịch sử. Bên cạnh đó, vẫn còn giáo viên dạy môn lịch sử chưa thực sự yêu nghề, cách truyền đạt kiến thức chưa gây hứng thú cho học sinh, chưa đi sâu tìm hiểu thêm nhiều tài liệu liên quan đến các sự kiện lịch sử của bài học. Hiện nay một số giáo viên còn nặng về việc đọc chép, nhồi nhét kiến thức gây cho các em sự ỳ trệ, chỉ nghe, ghi chép mà không chịu suy nghĩ để trả lời câu hỏi. Giáo viên chỉ mới dùng lại ở việc nêu và đưa ra các sự kiện lịch sử, thế nên giờ học diễn ra một cách khô khan, nhàm chán. Nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên trong quá trình dạy học đó không chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của sự kiện lịch sử, chưa biết cách tổ chức cho học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện lịch sử. Sách giáo khoa lịch sử lớp 9 trình bày rất nhiều sự kiện lịch sử, trong một bài học lên lớp giáo viên không thể trình bày được hết tất cả các sự kiện lịch sử, cũng như không thể yêu cầu học sinh cùng một lúc nắm bắt được tất cả các sự kiện lịch sử, vì thế việc xác định được những sự kiện lịch sử cơ bản, điển hình là hết sức quan trọng. Chính vì thế một số giáo viên đang rất lúng túng trong việc lựa chọn các sự kiện lịch sử cơ bản để trình bày cho học sinh. Từ chỗ xác định không đúng, hoặc không đầy đủ dẫn tới học sinh không thể nắm 2
  3. vững được những kiến thức cơ bản để có thể hình dung ra bức tranh của quá khứ lịch sử. Hiện nay học sinh học lịch sử chỉ mới dừng lại ở việc học thuộc sự kiện lịch sử, thế nên “học trước, quên sau”, nếu có biết lịch sử thì cũng chỉ là mơ hồ, không hiểu được sâu sắc bản chất của các sự kiện lịch sử. Với những lí do trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lĩnh hội đặc điểm của sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1954” với mong muốn sẽ tìm ra được một số biện pháp sư phạm để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của dạy học lịch sử hiện nay. II. Mô tả giải pháp: 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo sáng kiến: Lịch sử là môn học không chỉ giúp các em học sinh thấy được sự phát triển của một đất nước, một dân tộc, một xã hội loài người mà còn bồi dưỡng cho các em về tình yêu quê hương, đất nước, về lòng tự hào dân tộc, về sự biết ơn đối với những thế hệ cha ông đã anh dũng hy sinh để có được một đất nước Việt Nam tự do, độc lập, giàu mạnh và phát triển như ngày nay thông qua các bài học về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta từ thời Hai Bà Trưng (năm 40) đến đại thắng Mùa Xuân năm 1975. Từ thực tế đáng buồn là học sinh trường THCS Mỹ Thịnh không yêu thích môn lịch sử, xem nhẹ môn lịch sử, coi môn lịch sử là 1 môn phụ. Thậm chí đối với một số em học sinh “môn Văn, Toán cũng không quan trọng nữa là môn Lịch sử”. Chính vì những suy nghĩ đó nên trong giờ học các em không chú ý nghe giảng, không chịu khó ghi chép bài và tiếp thu kiến thức môn lịch sử một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống vì đa số các em đều cho rằng môn lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện, nhiều mốc thời gian thì rất dễ bị nhầm lẫn sự kiện này với mốc thời gian khác, hơn nữa lịch sử là môn nghiên cứu về quá khứ nên không thể thay đổi, phải chính xác tuyệt đối không thể sai xót dù chỉ là một mốc thời gian nhỏ nhất. Vậy làm thế nào để các em yêu thích môn lịch sử là một câu hỏi khiến tôi phải trăn trở và suy nghĩ để tìm ra giải pháp. Là một giáo viên dạy môn lịch sử tôi cũng đã áp dụng 1 số biện pháp như sử dụng thiết bị dạy học trong các tiết học nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Ưu điểm: Sử dụng thiết bị dạy học giúp giờ học sinh động, góp phần tạo hứng thú cho học sinh Nhược điểm: Vẫn còn nặng về hình thức, nhiều khi gây nhàm chán cho học sinh vì 3
  4. có sử dụng thiết bị nhưng trong cách truyền đạt của giáo viên giữa thiết bị với bài học còn khô khan. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: 2.1. Vấn đề cần giải quyết: - Phần lịch sử Việt Nam từ 1930-1954 là giai đoạn lịch sử đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ khi có Đảng ra đời đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Phần kiến thức ở giai đoạn đoạn này nặng về chính trị, tư duy và có rất nhiều sự kiện đan xen có mối liên hệ với nhau. Vì vậy đòi hỏi học sinh trong quá trình tìm hiểu, học phải nắm và lĩnh hội được đâu là sự kiện tiêu biểu, đâu là sự kiện điển hình. - Theo phân phối chương trình, học kì I mỗi tuần chỉ có 1 tiết lịch sử (Học kỳ 2 là 2 tiết/tuần) không có tiết bài tập và ôn tập nên thời gian học tập trao đổi giữa GV và HS hạn hẹp. - Đối tượng HS trên địa bàn xã phần lớn là con gia đình lao động khó khăn nên điều kiện học tập không nhiều (thời gian, sách tham khảo ) - Từ những khó khăn trên, tôi phải tìm tòi ra những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy lịch sử nói chung và lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930- 1954 lớp 9 nói riêng. 2.2. Tính mới, khác biệt của sáng kiến: - Đây là một đề tài hoàn toàn mới, giúp học sinh nắm được sự kiện qua đó học sinh sẽ lĩnh hội được kiến thức, sẽ phân tích được, so sánh được các sự kiện lịch sử. - Đề tài đã khai thác và áp dụng triệt để phương tiện công nghệ thông tin nhanh chóng cập nhật cái mới nhất và phù hợp với điều kiện của trường, của địa phương. - Đề tài đã đưa ra được nhiều biện pháp nhằm tăng sự lôi cuốn của bài học, thu hút HS - HS được rèn kĩ năng nắm bắt được các sự kiện điển hình, so sánh các sự kiện, sử dụng hình ảnh, lược đồ, làm bài tập lịch sử theo hướng “mở”, hạn chế được việc học thuộc lòng một cách máy móc khô khan, không nắm bắt được đâu là sự kiện điển hình, đâu là sự kiện không điển hình 2.3. Cách thức thực hiện: Trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, vai trò tổ chức, hướng dẫn của người giáo viên là hết sức quan trọng. Mặc dù, quan điểm về đổi mới phương pháp dạy học xác định phải chuyển từ mô hình giáo viên làm trung tâm sang học sinh làm trung tâm, thế 4
  5. nhưng không có nghĩa là đánh mất đi vai trò tổ chức, điều khiển của người giáo viên. Trong dạy học lịch sử, do tính đặc thù của bộ môn sử là những sự kiện mang tính quá khứ, không lặp lại vì thế rất dễ dẫn tới việc “hiện đại hóa” lịch sử, cho nên vai trò tổ chức của giáo viên đặc biệt được coi trọng. Trong dạy học lịch sử, mục đích của dạy học lịch sử là để học sinh biết, nhớ và hiểu sự kiện lịch sử. Muốn đạt được mục đích đó thì vai trò tổ chức của giáo viên để cho học sinh lĩnh hội đặc điểm về sự kiện lịch sử là rất cần thiết. Với tư cách là người tổ chức cho học sinh lĩnh hội đặc điểm về sự kiện lịch sử, giáo viên có thể sử dụng các biện pháp sau: 2.3.1. Giáo viên rút ra đặc điểm của sự kiện lịch sử để học sinh ghi nhớ. Khi tiến hành tổ chức cho học sinh lĩnh hội đặc điểm của sự kiện lịch sử, tôi sẽ sử dụng và kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lí các phương pháp, cách dạy học phù hợp để trong một lượng thời gian nhất định có thể nêu ra được các đặc điểm nổi bật nhất của một sự kiện lịch sử, để học sinh lĩnh hội một cách nhanh nhất mà không ảnh hưởng tới tiến trình của một bài học lịch sử. Tôi có thể sử dụng các cách tổ chức sau: Thứ nhất: dùng xen vào miêu tả để rút ra những đặc điểm nổi bật nhằm cụ thể hóa một sự kiện, một nhân vật lịch sử cần phải khắc sâu cho học sinh. Trong một bài học lịch sử, có rất nhiều sự kiện, mỗi sự kiện lại có rất nhiều nội dung kiến thức, vì thế tùy theo mức độ và tính chất quan trọng của sự kiện đó mà tôi sẽ lựa chọn sự kiện và nội dung kiến thức của sự kiện để xây dựng bài miêu tả toàn cảnh hay miêu tả khái quát có phân tích. Trong bài miêu tả có chứa đựng những nét đặc trưng, bản chất của sự kiện, vì vậy dựa vào đó tôi sẽ rút ra các đặc điểm nổi bật nhất để học sinh tiếp thu và ghi nhớ. Ví dụ: khi dạy mục I. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bài 18; Đảng cộng sản Việt Nam, để học sinh rút ra đặc điểm sự kiện lịch sử, tôi tổ chức các hoạt động để học sinh rút ra đặc điểm nổi bật của sự kiện lịch sử như sau: - Tôi sử dụng phương pháp cặp đôi (2 học sinh làm một nhóm) kết hợp với thiết bị dạy học (tranh về Hội nghị thành lập Đảng) và kỹ thuật đặt câu hỏi để giao nhiệm vụ cho các cặp đôi: + Hội nghị thành lập Đảng diễn ra trong thời gian nào? + Hội nghị thành lập Đảng diễn ra ở đâu? + Ai là người chủ trì hội nghị? 5
  6. - Các cặp nhóm trao đổi, thảo luận và đưa ra câu trả lời - Sau khi các cặp nhóm trả lời xong, tôi sẽ nhận xét phần trả lời của từng cặp đôi Sau đó tôi kết hợp với hình ảnh về Hội nghị thành lập Đảng và xây dựng bài miêu tả toàn cảnh về Hội nghị thành lập Đảng như sau: Tháng 1/1930, Hồng Công đang vào xuân Bảy đại biểu đã có mặt tại Cửu Long được gặp Nguyễn Ái Quốc mà tên tuổi từ lâu đã được các nhà cách mạng Việt Nam nói đến với lòng tin yêu, kính trọng, các đại biểu đã rất mừng và cảm động. Trong ngôi nhà cũ bé nhỏ bé của một công nhân ở Cửu Long, Hội nghị thành lập Đảng chính thức khai mạc. Mọi người ngồi xung quanh một chiếc bàn có để sẵn một bộ xúc xắc - một trò chơi ưa thích của người Trung Quốc ở Hông Công. Nếu có ai nghi ngờ vì thấy tiếng ồn ào trong buồng thì có thể tưởng rằng đây là nơi tụ tập của những kẻ cờ bạc. Uy tín của ông Nguyễn Ái Quốc có sức nặng đặc biệt đối với các đại biểu. Trong các buổi thảo luận, Nguyễn Ái Quốc khéo léo hướng dẫn. Nhờ những lời phát biểu cởi mở, súc tích và những kết luận có căn cứ, Người đã thuyết phục được tất cả các đại biểu và đưa hội nghị đến thành công, hội nghị đã nhất trí thống nhất thành lập một Đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam”. Từ bài miêu tả trên, tôi sẽ tổ chức cho học sinh lĩnh hội được đặc điểm về sự kiện này. Trước hết, tôi phải xác định ở phần nội dung kiến thức của sự kiện Hội nghị thành lập Đảng, nội dung nào cần khắc sâu kiến thức cho học sinh, đâu là đặc điểm cần rút ra cho học sinh. Mục đích nhằm lôi cuốn học sinh vào bài miêu tả đồng thời hướng học sinh tới những đặc điểm liên quan tới sự kiện cần phải nhớ như thời gian, địa điểm, nhân vật. Khi kết thúc bài miêu tả, tôi sẽ trao đổi, đàm thoại với học sinh thông qua các câu hỏi đã đặt ra, hoặc yêu cầu các em nhắc lại một số chi tiết quan trọng của bài miêu tả để học sinh không chỉ nhớ được thời gian, địa điểm của Hội nghị thành lập Đảng, mà còn thấy được sự khó khăn, phức tạp trong quá trình hợp nhất, thấy được tài năng và vai trò vô cùng quan trọng của Nguyễn Ái Quốc, và chỉ có Người mới đủ sức thống nhất được các tổ chức thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối cùng, để học sinh có thể nhớ vững chắc các đặc điểm của sự kiện tôi cho học sinh nắm được các đặc điểm quan trọng, nổi bật về sự kiện Hội nghị thành lập Đảng: - Thời gian: mùa xuân năm 1930 - Địa điểm: Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc. 6
  7. - Người chủ trì: Nguyễn Ái Quốc. Kết thúc bài học, để củng cố kiến thức, tôi sẽ xây dựng các bài tập trắc nghiệm để kiểm tra khả năng lĩnh hội ngay tại lớp hoặc yêu cầu học sinh về nhà hoàn thành nội dung bài tập theo yêu cầu. Hình ảnh: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 1930 - Nguồn Internet 7
  8. Thứ hai: dùng xen vào tường thuật để rút ra những đặc điểm nổi bật nhằm cụ thể hóa một sự kiện, một nhân vật lịch sử cần phải khắc sâu cho học sinh. Tường thuật là trình bày có chủ đề về một biến cố hay một tiến trình lịch sử trong sự phát triển, những hoạt động cụ thể của quần chúng nhân dân, hay một nhân vật lịch sử. Bài tường thuật có tác dụng khơi dậy óc tưởng tượng tái tạo của học sinh trong học tập lịch sử, tạo cho các em học sinh hứng thú học tập lịch sử hơn. Đặc biệt cấu tạo của bài tường thuật được xây dựng trên cơ sở các sự kiện cơ bản, chính xác bao gồm các “tình tiết”, mỗi một “tình tiết” của câu chuyện là một đặc điểm rất riêng biệt của một sự kiện lịch sử. Trong bài tường thuật, tôi sẽ phải dựa vào các đặc điểm rất riêng của sự kiện để xây dựng các “tình tiết” của câu chuyện. Chính vì thế thông qua các “tình tiết” của câu chuyện, tôi đã khéo léo dựa vào đó để rút ra các đặc điểm nhằm giúp học sinh lĩnh hội được các đặc điểm cơ bản của sự kiện lịch sử. Tất nhiên, không phải trong bài tường thuật nào, tất cả các tình tiết của sự kiện tôi cũng rút ra đặc điểm, mà tùy theo tính chất sinh động, cụ thể, điển hình của các tình tiết để tôi lựa chọn nhằm rút ra được các đặc điểm nổi bật của sự kiện, tạo cơ sở cho học sinh lĩnh hội được các đặc điểm của sự kiện lịch sử một cách sâu sắc, có ấn tượng mạnh mẽ, hình thành biểu tượng cho học sinh. Bài tường thuật thường được sử dụng trong các trường hợp trình bày về diễn biến một sự kiện, một hoạt động của cá nhân hay của quần chúng nhân dân nên tôi có thể xen vào đó để rút ra các đặc điểm nhằm cụ thể hóa một sự kiện, một nhân vật lịch sử cần phải khắc sâu cho học sinh. Ví dụ: để học sinh nắm được những đặc điểm về phong trào cách mạng 1936 – 1939, tôi sử dụng phương pháp đàm thoại kết hợp với tường thuật và thiết bị dạy học (tranh về cuộc mít tinh ở khu đấu xảo Hà Nội) cùng với kỹ thuật đặt câu hỏi như sau: + Phong trào thu hút nhiều người tham gia, song hàng ngũ chỉnh tề, có người phụ trách, có đeo phù hiệu, vậy vai trò tổ chức phong trào là ai? + Qua các khẩu hiệu phong trào đấu tranh nhằm mục tiêu gì? + Lực lượng tham gia bao gồm các giai cấp nào? + Hình thức đấu tranh chủ yếu là gì? - Học tìm hiểu sách giáo khoa trả lời từng câu - Sau khi học sinh trả lời các câu hỏi, tôi rút ra nhận xét và sử dụng bài tường thuật 8
  9. sau: “Ngày 1/5/1938, tất cả các đoàn thể quần chúng gồm trên 25.000 người, hàng ngũ chỉnh tề xếp hàng từ ga Hàng Cỏ dọc theo đường Gămbetta – nay là đường Trần Hưng Đạo để đón Gô- đa. Có người phụ trách từng nhóm, từng đoàn, mỗi người đều có huy hiệu trên ngực và khẩu hiệu cài trên mũ nón. Họ tiến vào các địa điểm tập trung. Trước lễ đài cuộc mít tinh, có các khẩu hiệu lớn: ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp, đi tới Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Tự do dân chủ, Chống phát xít và đấu tranh chống nạn sinh hoạt đắt đỏ” Cuộc mít tinh khai mạc. Sau bài Quốc ca Pháp, quần chúng hát vang bài Quốc tế ca. Tiếp đó, 12 lá cờ đỏ khổ lớn của 12 đoàn thể nhân dân được giương cao, chào đón những đại biểu của Đảng Xã hội, công nhân, nông dân, trí thức, lên công khai phát biểu trước quần chúng. Bọn thống trị Pháp rất căm tức, nhưng trước cuộc mít tinh lớn có hàng vạn người tham gia, có tổ chức, có kế hoạch, có chỉ đạo rất chặt chẽ, chúng đành bất lực”. Từ bài tường thuật trên, để tổ chức cho học sinh lĩnh hội được những đặc điểm về diễn biến, tính chất của phong trào dân chủ 1936 – 1939, cũng như để phát huy tính tích cực và sự hứng thú của các em, khi tường thuật tôi đã kết hợp với tranh, ảnh để miêu tả các chi tiết về lực lượng người tham gia, khẩu hiệu đấu tranh sau đó tôi đặt ra các câu hỏi gợi mở để trao đổi, đàm thoại với các em. Kết thúc bài tường thuật, tôi sẽ rút ra các đặc điểm của phong trào cách mạng năm 1936 – 1939 để học sinh ghi nhớ: + Lãnh đạo phong trào: Mặt trận Dân chủ Đông Dương. + Lực lượng tham gia: công nhân, nông dân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức + Địa bàn đấu tranh: chủ yếu ở đô thị. + Mục tiêu đấu tranh: tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình. + Hình thức đấu tranh: công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp và hòa bình. 9
  10. Hình ảnh: Cuộc mít tinh ở Khu Đấu xảo (Hà Nội) - Nguồn Internet Tóm lại, khi dùng xen vào bài miêu tả hay tường thuật, để đạt được mục đích là rút ra được các đặc điểm về sự kiện lịch sử để học sinh dễ học, dễ nhớ, chúng ta phải lưu ý: 10
  11. - Lựa chọn đúng sự kiện, trình bày mạch lạc, ngắn gọn và rõ ràng - Kết hợp với các hình thức trình bày miệng khác và các phương tiện dạy học một cách nhuần nhuyễn. - Ngôn ngữ trong sáng, sinh động, có hình ảnh, không rườm rà, dài dòng và khó hiểu. - Phải tạo ra sự hứng thú và lôi cuốn học sinh vào các sự kiện đang trình bày. - Kết thúc bài miêu tả hay tường thuật phải rút ra được các đặc điểm cần ghi nhớ cho học sinh. Thứ ba: Giáo viên sử dụng phương pháp giảng giải để tổ chức cho học sinh lĩnh hội đặc điểm của sự kiện lịch sử. Trong dạy học lịch sử ở trường trung học, việc vận dụng giảng giải của giáo viên trên lớp có tác dụng rất lớn đối với mỗi tiết học. Bởi vì, dựa trên cơ sở những tài liệu chính xác, qua sự giảng giải, minh họa của giáo viên về các sự kiện cụ thể sẽ giúp các em học sinh không chỉ nhớ, củng cố hình ảnh quá khứ đã học mà còn làm cơ sở cho việc hiểu sâu sắc hơn về bản chất, ý nghĩa của các sự kiện, hiện tượng lịch sử phức tạp, quan trọng. Đặc biệt lời giảng giải của giáo viên còn có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tổ chức cho học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện lịch sử. Tuy nhiên trong một tiết học, không phải lúc nào giáo viên cũng có thể giảng giải tất cả các sự kiện lịch sử, vì nó còn liên quan tới giới hạn thời gian của tiết học, liên quan tới khối lượng kiến thức cung cấp cho học sinh, liên quan tới tính đặc thù phân loại của sự kiện lịch sử, liên quan tới khả năng diễn đạt ngôn ngữ của giáo viên, thậm chí nếu vận dụng không khéo sẽ làm cho giờ học nặng nề, khô khan, làm mất đi tính hứng thú trong học tập, không những thế còn làm cho các em học sinh thấy khó nhớ các sự kiện, không hiểu sâu được bản chất của sự kiện, không nắm bắt được nội dung trọng tâm của bài học. Mỗi sự kiện lịch sử đều có những đặc điểm riêng biệt, nếu giáo viên không nắm được các đặc điểm, không phân biệt và chỉ rõ được các đặc điểm riêng biệt của các sự kiện lịch sử thì học sinh sẽ không nắm được những đặc điểm riêng biệt ấy, không thấy được mối liên hệ chung và riêng của các sự kiện và từ đó chắc chắn sẽ không nắm được bản chất, những đặc trưng trong mối liên hệ bên trong của các sự kiện lịch sử, hay thực ra là không nhớ, không hiểu, không vận dụng, và không nắm được những khái niệm, quy luật của các sự kiện lịch sử. Ví dụ như khi giảng về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, tôi sẽ chỉ ra cho các em thấy sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 vừa có đặc điểm chung 11
  12. của quy luật, vừa có đặc điểm riêng biệt mà các Đảng cộng sản khác trên thế giới không có, đó là “Đảng ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam trong thời đại mới”. Khi giảng giải sự kiện này tôi phải nắm được đặc điểm riêng biệt này, để từ đó giảng giải về quá trình xâm nhập của Chủ nghĩa Mác – Lê nin thông qua vai trò của Nguyễn Ái Quốc, sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước trước và sau khi chủ nghĩa Mác – Lê nin được truyền bá vào nước ta, yêu cầu đặt ra của cách mạng Việt Nam trong những năm cuối 1929 đầu 1930, trên cơ sơ của sự giảng giải đó, tôi sẽ khái quát và rút ra kết luật về tính tất yếu, hợp quy luật của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua sự giảng giải đó sẽ giúp học sinh vừa nhớ được đặc điểm riêng biệt về sự ra đời của Đảng, đó chính là sự kết hợp độc đáo giữa Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào yêu nước, vừa hiểu sâu và nắm được quy luật chung và riêng biệt, độc đáo về sự ra đời của Đảng Cộng sản. 2.3.2. Học sinh tự rút ra đặc điểm của sự kiện lịch sử thông qua vai trò tổ chức của giáo viên. Thứ nhất: sử dụng phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với dạy học hiện đại để hướng dẫn học sinh rút ra đặc điểm của sự kiện lịch sử. Trong dạy học lịch sử để phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh, tôi có thể sử dụng các phương pháp, biện pháp dạy học khác nhau. Trên cơ sơ loại bỏ những mặt hạn chế của dạy học truyền thống và dạy học hiện đại, phát huy những mặt tích cực của dạy học truyền thống và hiện đại, có thể sử dụng hai hình thức dạy học này kết hợp với nhau để tổ chức học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện lịch sử nhằm đạt được mục tiêu bài học lịch sử đã đề ra. Vậy làm thế nào để vận dụng được hai hình thức dạy học này để tổ chức học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện? Trên cơ sở vận dụng lí luận của hai hình thức dạy học truyền thống và dạy học hiện đại có thể xây dựng một bài học lịch sử để tổ chức học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện lịch sử như sau: - Bước 1: Gây hứng thú ngay đầu giờ học bằng cách: Tôi sẽ tạo tình huống có vấn đề, hoặc đưa ra các bài tập nhận thức. Thực chất là đặt mục đích học tập ngay đầu giờ học nhằm thu hút sự chú ý, tò mò của học sinh, kích thích sự hứng thú, thích khám phá vấn đề ngay từ đầu giờ học của học sinh. Ví dụ: Để giúp học sinh rút ra được các đặc điểm về hoàn cảnh, nội dung và 12
  13. mục đích của việc Chính phủ ta kí với Pháp hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946. Tôi sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề như sau: “Có ý kiến cho rằng, việc Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định kí với chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 là vi phạm độc lập, chủ quyền của dân tộc. Theo em ý kiến đó đúng hay sai? Vì sao?”. Với việc tạo ra tình huống có vấn đề này sẽ đặt ra cho học sinh vô vàn các thắc mắc cần giải đáp như: Tại sao Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh lại kí với Pháp các Hiệp định đó, trong lúc Pháp đang là kẻ thù của dân tộc? Hiệp định sơ bộ và Tạm ước đó có nội dung gì? Có liên quan tới vấn đề độc lập, chủ quyền của dân tộc hay không? Có phải Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh bán đứng quyền độc lập, chủ quyền của dân tộc hay không? Từ phương pháp dạy học nêu vấn đề này sẽ tạo hứng thú và lôi cuốn các em học sinh ngay từ đầu tiết học, sẽ kích thích tính tò mò, thích khám phá của các em học sinh, các em sẽ tự tìm hiểu và tự tìm kiếm câu trả lời. 13
  14. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Minh Giám đọc văn bản Hiệp định Sơ bộ trước khi phiá Việt Nam và Pháp ký chính thức Hiệp định Sơ bộ, ngày 6-3-1946. - Nguồn Internet 14
  15. - Bước 2: Tôi sẽ tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề thông qua trao đổi, đàm thoại hay bằng các bài tập nhận thức. Việc giải quyết vấn đề có thể tiến hành theo 2 cách: nếu vấn đề đó quá khó, không có trong sách giáo khoa, hoàn toàn mới mẻ, vượt quá tầm hiểu biết của học sinh thì tôi giải quyết rồi đưa ra các kết luận, học sinh tự ghi các kết luận đó. Còn nếu vấn đề đó học sinh đã được học, đã có trong sách giáo khoa, không quá khó đối với tầm nhận thức của học sinh thì tôi sẽ tổ chức cho học sinh tự trao đổi qua nhóm, tập thể hoặc cá nhân để tìm ý, rút ra kết luận. Việc này rất quan trọng vì nó không chỉ giúp các em nắm được kiến thức lịch sử, mà còn giúp các em phát triển khả năng nhận thức, nghiên cứu sự kiện lịch sử. Tôi sẽ tổ chức cho các em giải quyết vấn đề như sau: + Tôi đặt ra các câu hỏi gợi mở cho các em trao đổi, đàm thoại nhằm hai mục đích: Một là: gợi cho các em trả lời đúng hướng, tránh giải quyết vấn đề lan man, không đúng trọng tâm. Hai là: mỗi một câu hỏi gợi mở của tôi sẽ hướng các em tìm ra được một ý hay một đặc điểm của vấn đề đã nêu ở đầu giờ học. Ví dụ khi giảng về mục VI. Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước Việt – Pháp (14/9/1946) bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945 – 1946) tôi sẽ sử dụng phương pháp day học chia nhóm (chia 4 nhóm) cùng với kỹ thuật đặt câu hỏi gợi mở như sau: Tình hình nước ta trước khi kí Hiệp định sơ bộ và Tạm ước? Mục đích của của việc kí Hiệp định sơ bộ và Tạm ước? Nội dung của Hiệp định sơ bộ và Tạm ước có liên quan tới vấn đề độc lập, chủ quyền dân tộc không? Việc kí Hiệp định sơ bộ và Tạm ước thể hiện điều gì? Các nhóm sẽ trao đổi, thảo luận để trả lời câu hỏi Tôi để cho các em tự trả lời các câu hỏi nếu các em cảm thấy khó câu hỏi nào tôi sẽ gợi ý, hoặc để các em tranh luận với nhau, sau đó tôi sẽ yêu cầu các em trình bày ý kiến của mình. Cuối cùng, tôi sẽ nhận xét và rút ra các kết luận cần thiết để học sinh tự so sánh, tự bổ sung và tự ghi nhớ các đặc điểm về : - Hoàn cảnh: nước ta trước ngày 6/3/1946 vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi 15
  16. tóc”, nước ta đứng trước hai lựa chọn hoặc đánh hoặc hòa với Pháp. - Mục đích: nhằm tránh một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, nhằm kéo dài thời gian hòa hoãn. - Nội dung của Hiệp định sơ bộ: Pháp phải công nhận nước ta là một quốc gia “tự do” - Ý nghĩa: bảo vệ được các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, thiện chí hòa bình của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta. - Bước 3: Kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh tại lớp hoặc ở nhà thông qua các câu hỏi kiểm tra, hoặc các bài tập nhận thức nhằm mục đích tìm hiểu mức độ lĩnh hội kiến thức của học sinh. Thứ hai: giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh các sự kiện lịch sử, từ đó các em rút ra đặc điểm về sự kiện lịch sử cần ghi nhớ. So sánh là một phương pháp nghiên cứu lịch sử và được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu lịch sử. Mục đích của so sánh là để tìm ra mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tìm những điểm giống nhau hay khác nhau của các sự kiện lịch sử, đặc biệt là nhằm làm đậm nét hơn nội dung, bản chất của một sự kiện lịch sử. Vì thế, có thể sử dụng so sánh để hướng dẫn cho học sinh rút ra các đặc điểm của sự kiện sau khi đã học xong một giai đoạn, một thời kì lịch sử, hoặc so sánh sự kiện lịch sử đã học với sự kiện mới đang trình bày để tìm ra nét chung và riêng của các sự kiện lịch sử. Ví dụ như, sau khi học xong các giai đoạn của phong trào cách mạng Việt Nam từ năm 1919 đến 1945, tôi sẽ yêu cầu học sinh lập bảng so sánh sự giống và khác nhau giữa các giai đoạn cách mạng 1919 – 1930, 1930 – 1935, 1936 – 1939 và 1939 – 1945, qua đó giúp các em rút ra được những đặc điểm nổi bật của các giai đoạn. Hoặc trong bài cung cấp kiến thức mới, để học sinh nắm được đặc điểm nổi bật của Luận cương tháng 10 do Trần Phú soạn thảo, tôi sẽ hướng dẫn các em lập một bảng so sánh văn kiện Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 của Nguyễn Ái Quốc với văn kiện Luận cương tháng 10/1930 của Trần Phú. Trong đó: + Cột 1: Nội dung của Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 ghi đầy đủ. + Cột 2: Nội dung Luận cương tháng 10/1930 để trống. Mục đích là để trong quá trình giảng, tôi sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu, phát biểu rồi lần lượt điền các nội dung theo yêu cầu: 16
  17. Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 Luận cương tháng 10/1930 Đường lối: hai giai đoạn: CM tư sản dân Đường lối: quyền và CM xã hội chủ nghĩa Nhiệm vụ: đánh đổ đế quốc, phong kiến, Nhiệm vụ: tư sản phản cách mạng Lực lượng: liên minh công nông đoàn kết Lực lượng: với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Vị trí: là một bộ phận của cách mạng thế Vị trí: giới Vai trò: Đảng cộng sản lãnh đạo Vai trò: Sau khi hoàn thành xong phần ghi ở cột thứ 2, tôi sẽ yêu cầu các em đối chiếu, so sánh để tìm ra điểm giống và khác nhau của 2 văn kiện này, đặc biệt là tìm ra điểm khác nhau của văn kiện Luận cương tháng 10/1930 so với văn kiện Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930. Qua đó, tôi sẽ kết luận đặc điểm nổi bật của Luận cương tháng 10/1930 chính là nhấn mạnh nhiệm vụ chống phong kiến (hay nhiệm vụ giai cấp) đặt lên hàng đầu với hai lực lượng cơ bản là công nhân và nông dân. 17
  18. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tháng 2/1930 - Nguồn Internet 18
  19. Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo, tháng 10/1930 - Nguồn Internet 19
  20. Khi so sánh các sự kiện để tìm ra đặc điểm, yêu cầu giáo viên và học sinh phải tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận chứ không trình bày tùy tiện theo cảm tính chủ quan, khiên cưỡng, gò ép. Sự so sánh bao giờ cũng mang tính chất khập khiễng. Vì vậy, cần đặt mỗi sự kiện vào hoàn cảnh cụ thể của nó, không rơi vào các chi tiết vụn vặt mà phải căn cứ vào những nét bản chất, điển hình tiêu biểu cho mỗi sự kiện để tìm ra đặc điểm nổi bật của sự kiện lịch sử đó. 2.3.3. Sử dụng các loại đồ dùng trực quan. Trong dạy học môn lịch sử việc sử dụng đồ dùng trực quan có ý nghĩa rất quan trọng góp phần trong việc nâng cao chất lượng dạy – học lịch sử, đặc biệt qua các đồ dùng trực quan gây hứng thú học tập, nó góp phần tổ chức cho học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện lịch sử và trên cơ sở đó để tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử. Có nhiều loại đồ dùng trực quan được sử dụng trong dạy học lịch sử, có thể sử dụng một số loại đồ dùng trực quan sau để tổ chức cho học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện lịch sử: - Việc sử dụng tranh, ảnh lịch sử không chỉ có tính chất minh họa cho sự kiện mà còn là một nguồn kiến thức mà giáo viên cần khai thác để làm rõ sự kiện lịch sử đang trình bày. Để sử dụng tranh, ảnh nhằm tổ chức cho học sinh lĩnh hội các đặc điểm của sự kiện, giáo viên cần tiến hành theo các bước sau: Quan sát Miêu tả, hoặc Tường thuật Có thể đặt các câu hỏi Nội dung liên quan Rút ra các kết luận về kiến thức học sinh cần nắm. Ví dụ: Để tổ chức cho học sinh lĩnh hội các đặc điểm về phong trào cách mạng 1930 – 1931, đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh, tôi sử dụng phương pháp dạy học sử dụng đồ dùng trực quan bức tranh: “Đấu tranh trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh”, tôi sẽ tổ chức các hoạt động cho các em như sau: Bước 1: Tôi cho các em quan sát bức tranh từ trên xuống, từ trái sang phải, quan sát toàn bộ và ghi lại những cảm nhận ban đầu của mình về bức tranh như con người, vũ khí, khí thế đấu tranh Bước 2: Miêu tả bức tranh: Tôi sẽ xây dựng một bài miêu tả hoặc gợi ý cho các em những chi tiết quan trọng của bức tranh để các em miêu tả như: hình ảnh người nông dân với cánh tay khỏe mạnh vung lên phía trước hô hào cổ vũ mọi người tiến lên, hình lá cờ búa 20