SKKN Một số giải pháp dạy học nhằm nâng cao kĩ năng và phát triển năng lực của học sinh trong môn Ngữ văn Lớp 9

doc 21 trang Đan Tâm 29/03/2025 580
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp dạy học nhằm nâng cao kĩ năng và phát triển năng lực của học sinh trong môn Ngữ văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_day_hoc_nham_nang_cao_ki_nang_va_phat.doc

Nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp dạy học nhằm nâng cao kĩ năng và phát triển năng lực của học sinh trong môn Ngữ văn Lớp 9

  1. 1 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO KĨ NĂNG VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRONG MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 2. Lĩnh vực (mã) / cấp học : VĂN / THCS 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 10 tháng 9 năm 2023 đến ngày 05 tháng 5 năm 2024 4. Tác giả: - Họ và tên: Nguyễn Thị Hoa -Năm sinh: 1969 -Nơi thường trú: xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định -Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm văn - Chức vụ công tác: Giáo viên -Nơi làm việc: Trường THCS Nguyễn Phúc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định -Điện thoại : 0362011277 -Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến : % 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: - Tên đơn vị: Trường THCS Nguyễn Phúc -Địa chỉ: Thị Tứ xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định - Điện thoại:
  2. 2 BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Từ xưa đến nay, môn Ngữ Văn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong trong đời sống của con người. Văn chương giúp đời sống tinh thần thêm phong phú hơn, giúp ta ứng xử lịch sự, văn minh hơn. Không những thế văn chương còn làm cho thế giới ngôn ngữ của mỗi con người thêm phong phú và trong sáng hơn. Nó trau dồi lời ăn, tiếng nói của mỗi con người trong cuộc sống hằng ngày. Bước sang thế kỉ XXI môn Ngữ Văn trong trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng hơn , nó giúp con người nhận thức được cái hay, cái đẹp chuẩn mực trong cuộc sống. Vì văn học là những tinh hoa văn hòa nhân loại, lưu truyền những cái tốt đẹp của con người qua các thời đại. Văn chương dẫn chúng ta vào một thế giới mà sự cho đi không đòi hỏi sự đáp lại. Văn chương chân chính dù ở bất kì thời đại nào cũng đều dề cao tình yêu thương, lòng nhân ái, sự công bằng. Giúp học sinh nhận thấy thế giới này sẽ đẹp hơn nhiều từ những điều giản dị nhất, có bản lĩnh, có suy nghĩ, ứng xử, lối sống đúng đắn, lành mạnh. Môn Ngữ văn có vai trò quan trọng như vậy nhưng thực tế những năm gần đây cho thấy số học sinh yêu thích môn Văn không nhiều. Các em ngại học do đó dẫn đến các năng lực của bộ môn Ngữ văn bị hạn chế, ảnh hưởng không ít đến chất lượng. Chính vì lẽ đó mà trong giờ học văn người giáo viên không những giúp học sinh nắm vững, nắm chắc các kiến thức về các kiểu bài làm văn trong chương trình mà qua đó còn rèn cho học sinh hình thành các năng lực cơ bản cụ thể: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lý, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ. Nắm được nhược điểm đó của học sinh, bản thân tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp tổ chức dạy học nói trên để phát huy năng lực chủ động sáng tạo của cá nhân học sinh. Từ đó có thể rèn luyện cho học sinh có được các năng lực nêu trên để thể hiện, bộc lộ khả năng giao tiếp của mình trong nhà trường và
  3. 3 ngoài xã hội; góp phần nâng cao chất lượng bộ môn cũng như chất lượng chung của toàn trường. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: Trong những năm qua, dạy học theo định hướng năng lực là một trong những tư tưởng chủ đạo của chiến lược dạy học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông. Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân. Việc hình thành và phát triển cho HS năng lực giải quyết vấn đề để qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và giải quyết giải pháp tối ưu. Hoặc hình thành và phát triển cho HS năng lực sáng tạo, biết đặt các câu hỏi khác nhau về một sự vật, hiện tượng; xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới, phân tích, tóm tắt những thông tin liên quan từ nhiều nguồn khác nhau. Xác định các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong quá trình suy nghĩ và cảm xúc của HS trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống chẳng hạn. Bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, việc rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. - Mỗi kiểu loại văn bản học trong SGK đều có phương pháp riêng của từng kiểu bài. Chính vì vậy mà khi giảng dạy giáo viên chưa có sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, - Năng lực giải quyết vấn đề cũng như năng lực sáng tạo hay năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân trong học tập của các em còn nhiều hạn chế. - Chưa ý thức được vai trò, mục tiêu của các năng lực nói trên, nên vẫn còn một số học sinh chưa chủ động tự giác, thiếu tự tin, sáng tạo trong học tập. - Trong quá trình phát triển năng lực của người học, các phương pháp dạy học có thể được lồng ghép vào trong một bài hoặc có thể tách rời. Bởi vậy, đòi
  4. 4 hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong mỗi giờ học. Ở đơn vị trường THCS Nguyễn Phúc đã thực hiện dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh từ nhiều năm. Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm , tôi nhận thấy thực tế của việc phát triển năng lực của học sinh hiện nay theo định hướng phát triển chung còn nhiều hạn chế. Đặc biệt năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực thưởng thức văn học hay cảm thụ thẩm mĩ Để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng này ở trường, tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát về năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực thưởng thức văn học hay cảm thụ thẩm mĩ của các em khối lớp 9 trong năm học 2020-2021, kết quả như sau: Khối TS HS NL giao NL NL tự học NL giải NL sáng (Lớp) khảo sát tiếp thưởng quyết tạo, hợp thức, cảm vấn đề tác thụ 9 111 43,6% 45,5% 49% 47,2% 36,4s% Bảng số liệu trên cho thấy các năng lực như: giao tiếp; thưởng thức; cảm thụ ; giải quyêt vấn đề; sáng tạo và hợp tác của học sinh trong trường rất hạn chế có thể nói là rất thấp bởi không có năng lực nào đạt ở ngưỡng trung bình (tức 50%). Không ít ý kiến cho rằng sở dĩ có tình trạng này là do học sinh bị lôi cuốn theo cơ chế thị trường, thời đại của sự bùng nổ thông tin nên các em ít có độ lắng để cảm thụ, rung cảm trước một ý văn hay, một lời thơ đẹp. Qua thực tế, ta nhận thấy đa số học sinh rất ngại học Văn cho dù các em nhận thức được vai trò bổ trợ to lớn và thiết thực của Văn học trong học tập cũng như trong đời sống. Một phần do chính các em, nhưng một phần cũng là do thiếu chất văn trong giờ văn, hay nói cách khác là chưa tạo được những giờ học thực sự hứng thú lôi cuốn học sinh. Trong thực tế cũng đã có một số giải pháp dạy học nhằm phát triển năng lực của học sinh trong môn Ngữ Văn 9. Những giải pháp đó có ưu điểm là: Dễ áp dụng, linh hoạt giúp học sinh có những kĩ năng cần thiết của bộ môn. Nhưng bên
  5. 5 cạnh đó thì các giải pháp này cũng tồn tại không ít nhược điểm như: các năng lực không được phân loại rõ ràng thành từng mức độ nên rất khó khăn trong quá trình áp dụng; giáo viên phải làm việc nhiều hơn để có thể giúp học sinh hình thành các mức độ về năng lực. Trước thực tế đó, tôi không khỏi lo lắng vì hiệu quả của môn học, dẫn tới các em có thể không yêu thích bộ môn Ngữ văn. Từ những trăn trở trên, bản thân tôi đưa ra một số giải pháp về việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm phát triển năng lực của người học ở môn Ngữ văn. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: 2.1.Mục đích cụ thể, chi tiết của giải pháp Dạy học theo định hướng năng lực là một trong những tư tưởng chủ đạo của chiến lược dạy học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông. Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một căn cứ để hình thành và phát triển các phẩm chất năng lực như: giao tiếp ngôn ngữ; giải quyết vấn đề; năng lực cảm thu, phân tích; năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân Trong khi đó truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí thuyết. Mặt khác về phía học sinh những năng lực cơ bản của bộ môn như giao tiếp, cảm thụ, tự học, giải quyết vấn đề còn rất hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của bộ môn. Chính vì lẽ đó mà giải pháp dạy học nhằm: Phát triển kĩ năng, năng lực của học sinh trong môn ngữ văn 9 là rất cần thiết. 2.2 Bản chất, nội dung của giải pháp a. Phát huy năng lực của người học trong giờ dạy học đọc hiểu Dạy học đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp cận văn bản. Nếu như trước đây chúng ta coi phân tích tác phẩm hay giảng văn là một phương pháp đặc thù của
  6. 6 dạy văn thì nay cách dạy này đã dần được thay đổi bằng cách dạy đọc - hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản được học, mà hướng đến việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Để đạt được các nhiệm vụ đó, trong quá trình học, người HS thực hiện các bước cơ bản sau: *Bước 1: Trước khi đọc hiểu: Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân - là những hiểu biết về chủ đề hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề, thể loại của văn bản. Ví dụ: Khi dạy bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật, em hãy nêu khái quát hình ảnh lịch sử chiến tranh giai đoạn 1965 - 1974? H: Em biết được những tác phẩm thơ nào trong giai đoạn này? (học sinh sẽ trả lời: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, ). Hoặc khi dạy văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” của Mác-két. Giáo viên hỏi: Em biết gì về lịch sử giải thưởng Nobel? Em biết gì về bom nguyên tử và chiến tranh nguyên tử? (tích hợp môn học lịch sử, hóa học). Đấu tranh cho một thế giới hòa bình chúng ta phải làm gì? (tích hợp môn học GDCD). Từ đó giáo viên giới thiệu tác giả Mác-két và văn bản. *Bước 2: Trong khi đọc hiểu: Thể hiện những hiểu biết về văn bản (thể hiện hiểu biết về ý nghĩa của các từ ngữ trong văn bản; những hiểu biết về các mô hình ngữ pháp trong văn bản; về bố cục/cấu trúc của văn bản; những hiểu biết về thể loại của văn bản). Biết đọc hiểu đúng các loại văn bản: Tìm kiếm thông tin (đọc lướt để tìm ý chính; đọc kĩ để tìm các chi tiết). Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, phân tích, so sánh, kết nối, tổng hợp thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản. Ví dụ: khi dạy văn bản Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. - Thể hiện những hiểu biết về văn bản: + Bài thơ thuộc thể loại nào? (thơ tự do).
  7. 7 + Em có nhận xét gì về nhan đề của bài thơ? (thể hiện chất thơ vút lên từ trong cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ hi sinh). + Bài thơ được viết theo phương thức biểu đạt nào? (biểu cảm kết hợp miêu tả, tự sự). - Đọc hiểu đúng các loại văn bản: + Hình ảnh nổi bật nhất trong bài thơ này là gì?(Hình ảnh những chiếc xe không kính. + Quan sát khổ 1, tìm những chi tiết miêu tả về những chiếc xe không kính? “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” + Em có nhận xét gì về giọng điệu của hai câu thơ trên?(Giọng điệu thản nhiên, pha chút ngang tàng). + Cách sử dụng từ ngữ trong 2 câu thơ có gì đặc biệt? Có tác dụng như thế nào? (Động từ mạnh giật, rung, vỡ, tả thực, lời thơ gần với văn xuôi). + Thế nhưng những người lính lái xe chấp nhận hiện thực đó với thái độ như thế nào? Từ ngữ nào cho em biết điều đó? + Em hiểu cười ha ha là như thế nào?( Nụ cười, thái độ bất cần, không quan tâm, chấp nhận thực tế gian khổ ở chiến trường một cách bình thản). Giáo viên chiếu hình ảnh cảnh quan đường Trường Sơn, bản đồ địa lí Việt Nam, nổi bật khu vực miền Trung. Cho HS xác định vị trí địa lí của dãy Trường Sơn: + Nêu ý nghĩa chiến lược của dãy Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ? + Từ những hiểu biết trên, cùng với những lời thơ trong bài thơ, em có cảm nhận như thế nào về cuộc sống chiến đấu ở Trường Sơn? *Bước 3: Sau khi đọc hiểu: Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc - hiểu vào việc đọc các loại văn bản khác nhau, sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc - hiểu. Cụ thể:
  8. 8 - Đọc các văn bản khác (ngoài chương trình, SGK) có cùng đề tài/chủ đề hoặc hình thức thể hiện để củng cố những hiểu biết và rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu. Ví dụ: Sau khi học xong văn bản Bài thơ về tiểu đội xe không kính”: + Em nhận thức thêm được điều gì về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta ? (Gian khổ, nguy hiểm, nhưng không thiếu những sự tích hào hùng trên tuyến lửa Trường Sơn “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”). + Qua bài thơ này em cảm nhận được gì về sự tàn phá của chiến tranh đối với những cánh rừng? (Tàn phá ác liệt, những cánh rừng trơ trụi chỉ còn lại khói bụi). - Suy luận để bàn luận về những vấn đề trong cuộc sống có thể giải quyết bằng sự học hỏi từ nội dung của văn bản đã đọc - hiểu. +Từ việc tiếp cận văn bản, tác giả muốn ca ngợi ai và ca ngợi điều gì? + Bài thơ đã bồi đắp cho em tình cảm gì? Từ đó, em thấy mình cần phải làm gì để xứng đáng với sự hy sinh của cha ông ta trong những năm kháng chiến gian khổ để bảo vệ non sông đất nước? Ví dụ giáo viên có thể giáo dục tình yêu biển đảo cho học sinh thông qua một số áng văn thơ các em đã được học. Chẳng hạn khi dạy bài ‘Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận giáo dục tình yêu, lòng tự hào, niềm yêu mến quê hương. Bài thơ ca ngợi không khí lao động tấp nập của cư dân vùng mỏ Quảng Ninh, mảnh đất nơi địa đầu của Tổ quốc trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc trong những thập niên 60 của thế kỷ XX. - Trình bày những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể (là một nhiệm vụ trong học tập, trong đời sống) từ sự học tập nội dung của văn bản đã đọc - hiểu. Ví dụ: Học xong bài thơ "Mây và sóng" của Ta-go, em có suy nghĩ gì về cách ứng xử với cha mẹ của một số người qua những mẩu tin sau: - Ngày 26/3, Nguyễn Duy Linh (25 tuổi trú tại huyện Thanh Oai) bị TAND Hà Nội xét xử về tội giết người. Nạn nhân là mẹ của bị cáo (Theo ngày 26/3/2014)
  9. 9 - Cụ Nguyễn Văn Quý (84 tuổi) và cụ Nguyễn Thị Chén (82 tuổi), ngụ thôn Đồng Lư, xã Đồng Quang, huyện Quốc Oai, Hà Nội đang sống trong góc nhà nhỏ hẹp khoảng dăm mét vuông, chiếc giường xin được ở đâu nên hai chân còn, hai chân phải lấy gạch kê lên. Tám năm qua, cả 2 cụ bị con cái đẩy ra đường dù đã dựng vợ gả chồng cho con cái yên ấm. Hiện nay cụ ông ngày ngày ra đồng mò cua bắt ốc về nuôi cụ bà qua những ngày đói khổ. (Theo ngày 27/12/2013). * GV có thể tổ chức cho học sinh viết đoạn văn cảm nhận (khoảng 15 -20 câu) về lòng yêu nước của các thế hệ dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước giai đoạn 1969 – 1971 qua hai tác phẩm thơ vừa tìm hiểu. - HS cần cảm nhận được những ý cơ bản sau để viết: + Hình ảnh thế hệ trẻ : bình tĩnh, hiên ngang, lạc quan, bất chấp mọi hiểm nguy, quyết tâm đấu tranh giải phóng đất nước + Hình ảnh người phụ nữ : Đảm đang, trung hậu, bất khuất, tình mẫu tử thiêng liêng hòa quyện trong tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm. + Cảm xúc của bản thân : Yêu mến, khâm phục, tự hào, biết ơn liên hệ với hành động của bản thân b. Phát huy năng lực của người học trong dạy học tích hợp Quá trình dạy học tích hợp lấy chủ thể người học làm xuất phát điểm và đích đến, trong đó tích hợp là việc tổ chức nội dung dạy học của giáo viên sao cho học sinh có thể huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, từ đó phát triển được những năng lực cần thiết. Trong môn học Ngữ văn, dạy học tích hợp là việc tổ chức các nội dung của các phân môn văn học, tiếng Việt, làm văn trong các bài học, giúp học sinh từng bước nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập các văn bản thuộc các kiểu loại và phương thức biểu đạt. Ngoài ra quan điểm dạy học tích hợp còn gắn với dạy học theo phân hóa. Phân hóa là việc phân chia HS thành các nhóm khác nhau, mỗi nhóm học theo một chương trình phù hợp với đặc điểm tâm lý, khả năng học tập, nhịp độ học tập,
  10. 10 phù hợp nhu cầu học tập của HS, trên cơ sở đó phát triển tối đa năng lực của từng HS. Tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ thế mạnh, khả năng và sở thích cá nhân trong việc tự kiến tạo kiến thức cho mình, thông qua các hoạt động thảo luận nhóm, khuyến khích các tìm tòi cá nhân, các hướng tư duy và lập luận theo góc độ khác nhau trong quá trình học tập. Quá trình tổ chức dạy học này sẽ tạo cho HS một nền tảng kiến thức, kĩ năng, phương pháp học tập đáp ứng với những thử thách được đặt ra trong học tập và trong cuộc sống. Ví dụ 1: Khi dạy đọc hiểu về văn bản Lặng lẽ Sa Pa GV cần định hướng cho HS nắm được nội dung tích hợp cụ thể + Tích hợp ngang: - Với Tiếng Việt: Giải nghĩa từ: Thuật ngữ khoa học - Với Tập làm văn: Sự việc và nhân vật trong văn tự sự; Lời kể trong văn tự sự; phương thức biểu đạt; Viết đoạn văn biểu cảm về nhân vật trong truyện. + Tích hợp dọc: - Thể loại: Truyện ngắn - Đề tài: Ca ngợi người lao động thầm lặng - Chủ đề của truyện; Nhan đề của truyện. + Tích hợp liên môn (môn Địa lý, GDCD, mĩ thuật): Đặc điểm khí hậu tự nhiên của Sa Pa – địa điểm lí tưởng để đặt trạm khí tượng. Ví dụ 2: Khi dạy học theo chủ đề về hình ảnh người lính qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cụ thể qua hai văn bản: Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính GV ngoài hình thành cho HS nội dung tích hợp ngang và dọc cần đưa nội dung tích hợp liên môn (môn GDCD, Lịch sử, Âm nhạc, địa lí )cụ thể: Với bài Đồng chí: Giáo viên khai thác tranh ảnh minh họa, đưa tư liệu giai đoạn lịch sử đầu kháng chiến chống Pháp để từ đó HS cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng anh bộ đội được khắc họa trong bài thơ - những người đã viết nên những trang sử Việt Nam thời kí kháng chiến chống thực dân Pháp. Với bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính: HS xem băng hình về những đoàn xe vận tải trên đường Trường sơn để từ đó HS thấy được hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước được phản ánh trong tác phẩm: vẻ đẹp hiên
  11. 11 ngang, dũng cảm, tràn đầy niềm lạc quan cách mạng, của những con người đã làm nên con đường Trường Sơn huyền thoại. c. Vận dụng các hình thức tổ chức dạy học hướng tới phát triển năng lực trong môn Ngữ văn C1.Tổ chức dạy học theo góc. Trong đó hoạt động theo góc là hình thức tổ chức hoạt động học tập, theo đó người học thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong cách học khác nhau. Học theo góc người học được lựa chọn các hoạt động học tập theo các phong cách học, tạo cơ hội khám phá”, “Thực hành”; cơ hội mở rộng, phát triển, sáng tạo; cơ hội đọc hiểu các nhiệm vụ và hướng dẫn bằng văn bản của người dạy; cơ hội cá nhân tự áp dụng và trải nghiệm. Do vậy học theo góc kích thích người học tích cực thông qua hoạt động; Mở rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái, đảm bảo học sâu, hiệu quả bền vững, tương tác mang tính cá nhân cao giữa thầy và trò, tránh tình trạng người học phải chờ đợi. Chẳng hạn khi học về văn bản Đấu tranh cho một thế giới hòa bình (lớp 9), có thể tổ chức các góc: Viết bài luận; sáng tác thơ nhạc; vẽ tranh; xem băng hình; thảo luận về nội dung liên quan đến bài học. Dạy học theo góc có những điểm tương đồng với dạy học theo nhóm, theo cặp và một số phương pháp, kỹ thuật, thủ thuật dạy học khác. Ưu điểm của dạy học theo góc là người dạy có thể giao nhiều nhiệm vụ với các mức độ và năng lực khác nhau theo từng nội dung học tập, mỗi cá nhân tự hoàn thành nhiệm vụ với sự tương tác của người dạy và thành viên trong nhóm. Mỗi góc phải chuẩn bị đầy đủ các phương tiện đáp ứng nội dung học tập và nhiệm vụ các góc cùng hướng tới mục tiêu bài học. Dạy học theo góc có thể áp dụng ở hầu hết các dạng bài học và các bài tập tích hợp kiến thức nhiều môn học. C2.Cách tổ chức dạy học theo nhóm: Vận dụng các kiểu loại nhóm vào giờ dạy học văn: Với phân môn Văn học, dạy một văn bản, khó nhất là xây dựng được hệ thống câu hỏi, bài tập giúp mọi đối tượng học sinh chủ động tích cực học tập, một
  12. 12 vấn đề đưa ra phải tác động tới nhiều đối tượng học sinh, phải có nhiều học sinh được suy nghĩ và trình bày điều mình nghĩ. Chính vì vậy trong một tiết học, giáo viên cần suy nghĩ để chọn phần nào, câu hỏi nào dành cho việc hoạt động nhóm, không nên quá lạm dụng hình thức này sẽ dẫn đến nhàm chán, rơi vào bệnh hình thức, học sinh hoạt động nhóm chỉ là hình thức, không có hiệu quả. Giáo viên cần phải xác định hình thức nhóm. Một số hình thức tổ chức nhóm và cách chia nhóm: - Chia nhóm theo số lượng: Quy mô nhóm tuỳ thuộc vào nhiệm vụ sẽ giao cần đến ít hay nhiều người. + Nhóm nhỏ: nhóm theo từng cặp học sinh, thường hình thành bằng cách các em ngồi cạnh nhau. + Nhóm lớn: nhóm theo 1 - 2 bàn học, thường hình thành bằng cách các em quay mặt vào nhau hoặc bàn trên quay xuống bàn dưới. - Chia nhóm theo tính chất: + Nhóm ngẫu nhiên: được chia theo một cách ngẫu nhiên, không tính đến đặc điểm của người trong nhóm. + Nhóm hỗn hợp: gồm những em có điều kiện, năng lực khác nhau (thường được chia theo tổ) tạo điều kiện cho các em hỗ trợ lẫn nhau khi làm việc. + Nhóm tình bạn và nhóm kinh nghiệm: học sinh tự lựa chọn bạn cùng sở thích, có sở trường hoặc kinh nghiệm về một lĩnh vực nào đó tạo thành một nhóm. (Giáo viên thường giao việc cho học sinh thực hiện ở nhà) Tuỳ theo yêu cầu của câu hỏi kiến thức bài học, của vấn đề giáo viên đưa ra, vấn đề được chọn để nhóm làm việc nên hướng tới mục tiêu, yêu cầu, kết quả cần đạt và quy định thời gian làm việc. Nếu vấn đề nhỏ thì chỉ thảo luận trong nhóm nhỏ khoảng 2-3 học sinh (theo từng cặp hoặc theo một bàn học) trong thời gian ngắn. Ví dụ: * Giáo viên đưa ra câu hỏi thảo luận vấn đề cách dùng một từ, ngữ: Em hiểu “giọt long lanh rơi” là gì ? Tại sao tác giả không viết cụ thể ra ? (Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải - sách Ngữ Văn 9).
  13. 13 - Giáo viên nêu câu hỏi, chia nhóm, thảo luận nhanh, có thể không ghi ra giấy; - Giáo viên gọi 1 đại diện nhóm trả lời, các nhóm khác nhận xét. - Giáo viên đúc kết ghi bảng. Nếu vấn đề được thảo luận liên quan đến kiến thức toàn bài thì nhóm có số lượng thành viên và thời gian nhiều hơn (theo 1 hoặc 2 bàn học) Ví dụ: * Văn bản “Sang thu” (Hữu Thỉnh - Ngữ văn 9): giáo viên giao nhiệm vụ cho nhóm trả lời câu hỏi: - Nêu ý nghĩa 2 câu thơ cuối. Theo em đây có phải là 2 câu thơ hay nhất trong bài không ? - Giáo viên nêu câu hỏi, nhóm thảo luận: có thể ghi nội dung ra giấy để trình bày, các nhóm khác nhận xét. - Giáo viên đúc kết nhận xét. Khi chuyển sang phần luyện tập, phần lớn giáo viên cho học sinh về nhà làm vào vở bài soạn với 1 hoặc 2 câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa hoặc trong sách bài tập. Giáo viên có thể lựa chọn hình thức khác để luyện tập như: ứng dụng Công nghệ thông tin vào việc giảng dạy ở một số văn bản; cho học sinh thực hiện phần luyện tập đạt kết quả bằng cách trả lời các câu hỏi trắc nghiệm, tự luận và làm việc theo nhóm (thi đua giữa các nhóm) kích thích hứng thú học tập của học sinh. Ví dụ: * Dạy văn bản “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương - Ngữ văn 9), phần luyện tập, giáo viên có thể đưa ra 6 câu hỏi để củng cố, cách thực hiện: Có thể chia lớp thành 2 nhóm (theo 2 dãy bàn hoặc theo tổ), tuỳ theo cách sắp xếp dãy bàn trong lớp học và chỉ định linh hoạt của giáo viên. Dãy 1 chọn câu hỏi và trả lời, giáo viên đưa đáp án đối chiếu. Tiếp theo dãy 2 chọn câu hỏi và trả lời, giáo viên đưa đáp án đối chiếu (nếu đúng cả lớp vỗ tay khen thưởng). Và cứ tiếp tục cho đến hết 6 câu hỏi. (6 câu hỏi được liên kết ẩn dưới 6 hình ảnh để các nhóm lựa chọn và trả lời, câu hỏi nào đã chọn sẽ được thoát khỏi màn hình) Cuối cùng giáo viên nhận xét và biểu dương các nhóm.
  14. 14 * Dùng hình ảnh để củng cố nội dung bài học (khi ứng dụng công nghệ thông tin), bằng những hình ảnh tĩnh, động liên quan đến nội dung bài học kích thích sự hứng thú của học sinh, tự suy luận nêu vấn đề từ hình ảnh đó. Ví dụ: - Khi học văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật - Ngữ văn 9), giáo viên truyền cho học sinh sự cảm thụ và hiểu nội dung, hình thức nghệ thuật của bài thơ dựa vào lợi thế của việc ứng dụng công nghệ thông tin thông qua hình ảnh, đoạn phim tư liệu về tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, về những anh bộ đội dũng cảm, trong khó khăn, gian khổ mà vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan. Việc khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin trong bài giảng khẳng định được tính hiệu quả trong dạy học ở trường phổ thông. Dùng hình ảnh, âm thanh thông qua phần mềm PowerPoint để thiết kế bài dạy học làm giàu thêm hoặc cụ thể hoá kiến thức cơ bản sẽ mang lại hiệu quả cao cho bài dạy. C3. Tổ chức hoạt động khởi động đa dạng, phong phú Khi giảng dạy các tác phẩm thơ và truyện hiện đại, hoặc các tiết Tiếng Việt, Tập làm văn để các em hứng thú và chú ý hơn tới tiết học tôi thường thay đổi việc tổ chức các hoạt động khởi động ở đầu mỗi bài dạy. Ở hoạt động khởi động: Trước khi tiếp xúc với văn bản giáo viên có thể vận dụng kiến thức liên môn để tạo tâm lý hứng thú cho học sinh trước khi vào bài như đưa các câu hỏi tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản. Hoặc dùng tranh ảnh bản đồ địa lý để giới thiệu địa danh quê quán của tác giả như về cuộc đời, sự nghiệp hoặc về tác giả. Ngoài ra giáo viên có thể cho các em xem những đoạn vi deo ngắn, những bài hát liên quan đến tác phẩm để giảng dạy. Ví dụ Dạy văn bản “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương - Ngữ văn 9), ở hoạt động khởi động giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn video ngắn về lăng Bác; hoặc nghe bài hát “Viếng lăng Bác” để hỏi học sinh một số thông tin về tác giả, tác phẩm sau đó dẫn vào bài.
  15. 15 Không chỉ ở hoạt động khởi động, hoạt động hình thành kiến thức khi đọc văn bản hoặc tìm hiểu văn bản giáo viên cũng thường xuyên thay đổi hình thức dạy học để đa dạng các hoạt động kích thích sự chủ động sáng tạo và hứng thú của học sinh trong giờ học qua đó hình thành cho học sinh năng lực giao tiếp, năng lực cảm thụ; trình bày một vấn đề liên quan đến bài học. C4. Thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển kĩ năng, năng lực của học sinh Một giải pháp nữa để nâng cao năng lực của người học ở môn Ngữ văn đó là việc thiết kế bài dạy. Đó là việc làm cụ thể thiết thực và quan trọng để dạy học theo hướng hình thành và phát triển phẩm chất năng lực của học sinh. Giáo án (kế hoạch dạy học) được điều chỉnh cụ thể hơn so với truyền thống. Có thể có nhiều cấu trúc để thiết kế một kế hoạch dạy học. Thông thường khi thiết kế bài dạy phải có các nội dung sau: Mục tiêu bài học: phải nêu rõ yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ.Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể. Chuẩn bị về phương pháp, phương tiện dạy học. Ở phần này giáo viên chuẩn bị các thiết bị dạy học( tranh ảnh mô hình, hiện vật ) và các phương tiện dạy học và tài liệu dạy học cần thiết. Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy học cụ thể với mỗi hoạt động cần chỉ rõ: + Tên hoạt động + Mục tiêu hoạt động + Cách tiến hành hoạt động + Thời lượng thực hiện hoạt động Hoạt động tiếp nối : Xác định những việc học sinh cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố khắc sâu mở rộng bài học; hoạt động ứng dụng kết quả của bài học vào thực tế cuộc sống (ở lớp, ở nhà, cộng đồng; có thể hoạt động cùng bạn, gia đình, làng xóm, khu phố) hoặc để chuẩn bị cho bài học mới. Việc chú trọng đến việc thiết kế bài dạy đặc biệt ở mỗi hoạt động giáo viên cũng cần
  16. 16 chú ý để hình thành cho học sinh những năng lực của bộ môn như : giao tiếp; cảm thụ; phân tích ; trình bày; tự học; giải quyết vấn đề Ví dụ:(Thiết kế một hoạt động trong tiết văn bản) BÀI 12: ÁNH TRĂNG Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt A. Hoạt động khởi động Giáo viên: Chiếu cho học sinh xem một đoạn video trong quà tặng cuộc sống có nội dung về cách sống tình nghĩa biết ơn. ? Cảm nhận của em sau khi xem xong đoạn phim trên? Học sinh trình bày cảm nhận Giáo viên dẫn dắt vào bài B. Hoạt động hình thành kiến thức 1. Đọc văn bản - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm * Tác giả, tác phẩm: chú thích dấu * Giáo viên: Giới thiệu những nét khái -Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quát về tác giả? quân đội trưởng thành trong kháng Học sinh trả lời chiến chống Mỹ cứu nước. ? Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh -Hoàn cảnh sáng tác: năm 1978 sau nào? khi đất nước thống nhất được 3 năm. GV theo em bài thơ cần đọc với giọng như thế nào? GV nêu yêu cầu đọc: Cần đọc đúng ngữ * Đọc. điệu để cảm nhận tâm trạng của nhà thơ. GV đọc trước 1 khổ thơ GV gọi học sinh đọc ? Em hiểu “tri kỉ” nghĩa ntn? Tri kỉ: người bạn tâm đắc, hiểu rõ tâm * Từ khó. tư tình cảm của mình GV yêu cầu học sinh hoạt động nhóm (4 HS) hoàn thiện PHT số 1 sau: *Bố cục của văn bản: 1. Bài thơ được viết theo thể thơ gì ? Nhân vật trữ tình trong bài thơ này là ai? 2. Phương thức biểu đạt của bài thơ? - Thể thơ: năm chữ. Nhân vật trữ tình Bài thơ chia bố cục làm mấy phần? là tác giả GV yêu cầu các nhóm cử đại diện trình - Phương thức biểu đạt: biểu cảm + tự bày sự. GV Các nhóm khác bổ sung? - Bố cục 2phần: GV chốt + 2 khổ đầu: cảm nghĩ về vầng trăng
  17. 17 - Thể thơ: năm chữ. Nhân vật trữ tình là trong quá khứ tác giả + 4 khổ tiếp: Cảm nghĩ về vầng trăng - Phương thức biểu đạt: biểu cảm + tự hiện tại và tình cảm của tác giả sự. - Bố cục 2phần: + 2 khổ đầu: cảm nghĩ về vầng trăng trong quá khứ + 4 khổ tiếp: Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại và tình cảm của tác giả Gv chuyển ý sang phần 2 2. Tìm hiểu văn bản D. Củng cố - Nhớ được nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa tác phẩm đã học E. Kiểm tra đánh giá 1. Chỉ ra kết cấu và giọng điệu của bài thơ . G. Những ghi chép trên lớp - Đánh giá học sinh - Những nội dung cần điều chỉnh d.Tính mới của sáng kiến kinh nghiệm Tính mới trong giải pháp dạy học nhằm: Phát triển năng lực của học sinh trong môn ngữ văn 9 mà tôi đã áp dụng đó là: - Nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập các văn bản thuộc các kiểu loại và phương thức biểu đạt của học sinh. - Cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. - Học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức được áp đặt sẵn. Giúp các em biết cách tự giải quyết các vấn đề trong môn học ; biết sử dụng các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có. - Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm “tạo điều kiện cho HS nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn, và thảo luận nhiều hơn”. Hướng